Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 100/2022/HS-ST NGÀY 07/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Châu B, sinh năm 1976 tại Tiền Giang; giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 23 đường 21B, Khu phố C, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Quang T và bà Lê Thị Quốc L; bị cáo có vợ và 02 người con sinh năm 1994 và 1995; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2021 đến nay;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 19/11/2021, tổ công tác tuần tra Công an xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tuần tra đến trước địa chỉ A7/10, tổ 7, ấp 1B, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Lê Châu B đang điều khiển xe biển số 50N1-128.41 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trong túi quần của B đang mặc trên người phía trước bên trái của Bình có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu và Bình khai nhận là ma túy đá vừa mua được và cất giữ để sử dụng cho bản thân. Do đó, Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với B, thu giữ, niêm phong số tang vật trên và lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh điều tra xử lý. Qua test ma tuý cho thấy B có sử dụng ma tuý.

Tại bản Kết luận giám định số: 6308/KLGĐ-H ngày 26/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m thu giữ của Lê Châu B cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,3401g (một phẩy ba bốn không một gam), loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Lê Châu B khai nhận: B là người nghiện ma túy từ năm 2016, do hết ma túy sử dụng nên vào ngày 18/11/2021 và 19/11/2021, B sử dụng số điện thoại 0938457549 của mình gọi vào số 0938457591 của người đàn ông tên T (không rõ lai lịch) đặt mua 02 gói ma túy giá 400.000đ/01gói/01 ngày, T đồng ý và hẹn địa điểm giao dịch tại khu vực gần bến xe Chợ Lớn, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi mua được ma túy, B đem về sử dụng 01 ít và cất giấu số ma túy còn lại trong người. Đến trưa ngày 19/11/2021, B điều khiển xe mô tô biển số 50N1-128.41 mang theo 02 gói nylon ma túy đá cất giấu trong túi quần đang mặc nói trên đi công việc cá nhân, trên đường đi về nhà, khi đến trước địa chỉ A7/10, tổ 7, ấp 1B, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh thì bị Công an kiểm tra, phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, thu giữ của Lê Châu B, qua giám định có khối lượng là 1,3401g, loại Methamphetamine.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia có số IMEI 1: 354880080220582, IMEI 2: 354880080220590 cùng 01 (một) sim đã qua sử dụng, chiếc điện thoại này B sử dụng để liên lạc mua ma túy.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, có số IMEI 1:

358465091319049, IMEI 2: 358466091319047 cùng 01 (một) sim đã qua sử dụng, chiếc điện thoại này B sử dụng cho sinh hoạt cá nhân.

- 01 xe mô tô biển số 50N1 -128.41.Qua xác minh xe này do ông Lê Quốc Bình M đứng tên chủ sở hữu. Ông M bán chiếc xe này lại cho bà Lê Châu P sử dụng. Sau đó, bà P cho B mượn chiếc xe này đi công việc nhưng không biết B sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả chiếc xe mô tô này lại cho bà P.

Tại Cáo trạng số: 81/CT-VKS ngày 29 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Châu B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt bị cáo Lê Châu B từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Tịch thu tiêu hủy: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, thu giữ của Lê Châu B, qua giám định có khối lượng là 1,3401g, loại Methamphetamine;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia có số IMEI 1: 354880080220582, IMEI 2: 354880080220590 cùng 01 (một) sim đã qua sử dụng;

- Giao trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, có số IMEI 1: 358465091319049, IMEI 2: 358466091319047 cùng 01 (một) sim đã qua sử dụng;

- Ghi nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả chiếc xe mô tô biển số 50N1 -128.41 lại cho bà Lê Châu P Tại phiên tòa, bị cáo Lê Châu B khai nhận hành vi như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm quay về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy lời khai tại phiên tòa của bị cáo Lê Châu B phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, vật chứng của vụ án, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận vào ngày 19/11/2021 bị cáo Lê Châu B đã thực hiện hành vi cất giữ 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định có khối lượng là 1,3401g, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang tại trước địa chỉ A7/10, tổ 7, ấp 1B, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý và sử dụng chất ma túy của Nhà nước, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lê Châu B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, thu giữ của Lê Châu B, qua giám định có khối lượng là 1,3401g, loại Methamphetamine. Xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành trái phép nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia có số IMEI 1: 354880080220582, IMEI 2: 354880080220590 cùng 01 (một) sim đã qua sử dụng, bị cáo B sử dụng để liên lạc mua ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, có số IMEI 1:

358465091319049, IMEI 2: 358466091319047 cùng 01 (một) sim đã qua sử dụng, bị cáo B sử dụng cho sinh hoạt cá nhân nên giao trả lại cho bị cáo Bình theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe mô tô biển số 50N1 -128.41.Qua xác minh xe này do ông Lê Quốc Bình M đứng tên chủ sở hữu. Ông Minh bán chiếc xe này lại cho bà Lê Châu P sử dụng. Sau đó, bà P cho Bình mượn chiếc xe này đi công việc nhưng không biết Bình sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả chiếc xe mô tô này lại cho bà P nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Đối với người đàn ông tên“T” là người bán ma túy cho B, do chưa rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đang tiếp tục truy xét, khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.

[8] Đối với các số điện thoại có liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã gửi công văn đến Công ty thông tin di động VMS Mobiphone đề nghị xác minh chủ thuê bao và dữ liệu điện thoại di động nhưng đến nay chưa nhận được kết quả.

[9] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, hình phạt đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng. Hội đồng xét xử cũng chấp nhận ý kiến của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Lê Châu B 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/11/2021.

Tịch thu và tiêu hủy: 02 (hai) gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định có khối lượng là 1,3401g, loại Methamphetamine.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia có số IMEI 1: 354880080220582, IMEI 2: 354880080220590 cùng 01 (một) sim đã qua sử dụng.

Giao trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, có số IMEI 1: 358465091319049, IMEI 2: 358466091319047 cùng 01 (một) sim đã qua sử dụng.

(tất cả vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/4/2022 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh) Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 100/2022/HS-ST

Số hiệu:100/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về