Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 22/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚYZ

Ngày 22 tháng 02 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2023/TLST- HS ngày 10 tháng 01 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:n 03/2023/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 02 năm 2023, đối với:

- Bị cáo: Phm C Th - sinh năm 1993 (Giới tính: Nam). ĐKHKTT: Thôn 4, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; Học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam;

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm C S và Bà Nguyễn Thị B; Chưa có vợ con; Tiền sự; tiền án: Không.

Nhân thân: - Tháng 03/2011 bị TAND thị xã S xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Tháng 4/2012 bị TAND thành phố Thanh Hóa, xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; Ngày 03/5/2012 bị TAND huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, xử phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Ngày 10/5/2012 bị TAND huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt là 07 năm 08 tháng tù.

Tạm giữ: Ngày 06/10/2022 chuyển tạm giam ngày 15/10/2022. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Ngyễn Hữu L, sn 989 Địa chỉ: Thôn Minh Thiện, xã Quảng Minh, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

- Người làm chứng: 1. Anh Lê Doãn C - sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn 2, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

2. Anh Hoàng Trọng M - sinh ănm 1992.

Địa chỉ: Thôn 5, xã Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

- Người chứng kiến: Anh Trần Văn H - sinh năm 1970.

Địa chỉ: Khu phố Bắc Nam (Trưởng khu phố), phường Quảng Vinh, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h30’ ngày 05/10/2022, trên đường duyên hải thuộc khu phố Nam Bắc, phường Quảng Vinh, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa tổ công tác của C an thành phố S phát hiện đối tượng Lê Doãn C đang điều khiển xe môtô không gắn biển kiểm soát có biểu hiện nghi vấn Tổ công tác của C an thành phố S yêu cầu Lê Doãn C dừng phương tiện, kiểm tra phát hiện, thu giữ: Tại vị trí bên trong cốp ắc quy điện xe môtô có 01 gói giấy ăn màu trắng gấp nhỏ, bên trong gói giấy có 02 túi nilon màu trắng kích thước (2,5x3)cm chứa chất tinh thể màu trắng (Niêm phong ký hiệu M1); 01 điện thoại Iphone XSMax (Niêm phong ký hiệu M2); 01 điện thoại Nokia (Niêm phong ký hiệu M3); 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha Exciter. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản sự việc và đưa đối tượng cùng tang vật về trụ sở tiếp tục làm việc.

Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai, Lê Doãn C khai nhận: Chiếc xe mô tô C điều khiển là của Phạm C T ở thôn 4, xã Q, thành phố S do tối ngày 05/10/2022, T đổi xe mô tô cho C đi, còn về nguồn gốc 02 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng thì C không biết là của ai, ở đâu mà có. Khi C gọi cho T báo sự việc C an kiểm tra xe thì T nói trong xe có ma tuý và bảo C bỏ chạy.

Đến 10h10’ ngày 06/10/2022 do biết hành vi phạm tội bị phát hiện nên Phạm C T đến C an thành phố S làm việc và xin đầu thú khai báo hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra, các đối tượng khai nhận: Khoảng 18 giờ 00 ngày 01/10/2022, T gọi điện mua 02 chỉ Ketamine với giá 4.000.000 đồng của Nguyễn Hữu L ở thôn Minh Thiện, xã Quảng Minh, thành phố S. Sau đó đem về nhà chia thành 04 túi nhỏ, T sử dụng hết 02 túi, còn lại 02 túi ma tuý vào trong mảnh giấy ăn màu trắng, bỏ vào trong cốp xe Exciter.

Khoảng 20h30’ ngày 05/10/2022, T gặp C tại quán cắt tóc của Thừa Thị Điệp ở thôn 3, xã Quảng Giao, Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá.

T bảo C đổi xe Honda SONIC cho T đi có việc, còn C đi xe của T thì C đồng ý. C đi xe Exciter của T đến đoạn đường duyên hải thuộc tổ dân phố Nam Bắc, phường Quảng Vinh, thành phố S thì bị kiểm tra, phát hiện, thu giữ ma túy. Lúc này, C gọi cho T về việc bị công an kiểm tra xe và đem giấy tờ đến thì T nói trong xe có ma tuý và bảo C bỏ chạy.

Tại Bản kết luận giám định số 3478/KL-KTHS, ngày 11/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh Thanh Hóa, kết luận (BL 94): Chất tinh thể màu trắng của phòng bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,149g loại Kentamine.

Vật chứng của vụ án: Mẫu vật còn lại sau giám định được đựng trong một phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh Thanh Hóa phát hành; 01 điện thoại Iphone 11 Pro Max; 01 điện thoại Nokia 105 của Nguyễn Hữu L. Số vật chứng trên đang được bảo quản theo hồ sơ vụ án.

Đối với 01 điện thoại Iphone XS Max và 01 điện thoại Nokia 1203 của Lê Doãn C. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Lê Doãn C.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter số máy G3D4E560405; số khung RLCUG0610HY536883. T khai mua qua mạng Facebook với giá 4.000.000 đồng, giao xe tại huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An. Quá trình điều tra, xác định chủ sở hữu hợp pháp là của anh Mai Văn Trường ở thôn Ninh Sơn, xã Trường Lâm, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá bị mất trộm tháng 7/2022 nhưng không báo cáo với Cơ quan C an. Cơ quan CSĐT C an thành phố S đã có công văn trao đổi với C an thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá bàn giao chiếc xe mô tô trên để tiến hành xác minh, giải quyết theo thẩm quyền.

Đối với chiếc điện thoại Iphone 6, có gắn sim số 096918xxxx của Phạm C T dùng để gọi điện thoại mua ma tuý, T khai đã làm rơi vào sáng ngày 06/10/2022 trên đường đến Cơ quan C an đầu thú. Cơ quan CSĐT C an thành phố S đã truy tìm nhưng không có kết quả.

Cáo trạng số: 09/CTr - VKS.HS ngày 09 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa truy tố: Phạm C T, về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với: Phạm C T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS, xử phạt Phạm C T, mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành tù kể từ ngày tạm giữ 06/10/2022.

Về xử lý vật chứng: - Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong một phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh Thanh Hóa phát hành;

- Tuyên trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Nguyễn Hữu L 01 điện thoại iphone 11 Pro Max và 01 điện thoại Nokia 105.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội làm người công dân lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện điều tra, truy tố đúng theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2]. Về nội dung vụ án: Vào khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 05/10/2022, trên đường duyên hải thuộc địa bàn khu phố Nam Bắc, phường Quảng Vinh, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa, tổ công tác C an thành phố S kiểm tra, phát hiện, thu giữ tại vị trí bên trong ốp ắc quy điện xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu đen, không gắn biển kiểm soát của Phạm C T. Qua giám định có tổng khối lượng 1,149g loại Kentamine. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và người tham gia tố tụng khác.

Cáo trạng, Truy tố Phạm C T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã có hành vi tàng trữ 1,149 gam ma túy loại Kentamine để sử dụng là hoàn toàn không có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, là cố ý trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước một cách trái pháp luật, ma túy là mối đe dọa đến sự phát triển lành mạnh của giống nòi, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, làm sói mòn và ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, gây khó khăn cho việc kiểm soát các chất ma túy, tạo ra lớp người nghiện đe dọa đến trật tự, an toàn xã hội. Quá trình phạm tội bị cáo nhận thức được pháp luật nhưng do thiếu ý thức rèn luyện bản thân nên bất chấp. Hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, tuy nhân thân có phạm tội nhưng đã được xóa án tích. Do bị cáo thiếu ý thức tự rèn luyện, Bố, mẹ bị cáo mất sớm nên sự giáo dục chuẩn mực đạo đức đối với bị cáo cũng bị hạn chế nhất định. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà được hưởng tình tiết giảm nhẹ do quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó khi lượng hình cần xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo, nhưng việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo sớm trở thành người công dân tốt, sống có ích cho xã hội, đồng thời răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6].Về xử lý vật chứng và án phí: Cần xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự.

- Điều 61; Điều 65; Điều 331; Điều 333; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Phạm C Th, phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Phạm C Th, 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/10/2022.

Về xử lý vật chứng:

 - Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự C an tỉnh Thanh Hóa phát hành.

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là Nguyễn Hữu L 01 điện thoại iphone 11 Pro Max và 01 điện thoại Nokia 105, theo biên bản mô tả giao nhận vật chứng số: 52/BBVC - CCTHA ngày 12/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Phạm C Th, phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm C Th, có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Ngyễn Hữu L, có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về