Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04/3/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2022/TLST-HS ngày 21/01/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST-HS ngày 18/02/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn H, sinh năm 1998, tại huyện KC tỉnh HY. Nơi đăng ký HKTT, nơi cư trú: Thôn DT, xã TD, huyện KC, tỉnh HY. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: Tự do. Con ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1976. Con bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1977. Gia đình bị cáo có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ là Lê Thị Thu H1, sinh năm 2001. Bị cáo có 1 con sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Chưa có. Bị tạm giữ từ ngày 26/10/2021 đến ngày 29/10/2021 chuyển tạm giam, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Văn Giang, theo lệnh trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :

- Chị Lê Thị Thu H1, sinh năm 2001 Địa chỉ: Thôn DT, xã TD, huyện KC, tỉnh HY.

* Người làm chứng :

1/. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1979 Địa chỉ: Thôn ĐN, thị trấn VG, huyện VG, tỉnh HY.

2/. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1981 Địa chỉ: Thôn KN, xã YH, huyện YM, tỉnh HY.

3/. Chị Nguyễn Thị H2, sinh năm 1977 Địa chỉ: Thôn DT, xã TD, huyện KC, tỉnh HY.

Tại phiên tòa: Chị H1 và chị N có mặt. Chị L và chị H2 vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 50 phút ngày 26/10/2021, Công an huyện Văn Giang phối hợp với Công an thị trấn Văn Giang kiểm tra, phát hiện tại quán bánh tẻ LB thuộc thôn ĐN, thị trấn VG, huyện Văn Giang, Phạm Văn H đang ngồi tại quán có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi lực lượng Công an tiến hành kiểm tra, từ bàn tay trái của H thả xuống nền quán tại vị trí H đang ngồi một gói nilon có khóa bóp màu trắng, kích thước (2,5x1,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, thu giữ gói nilon trên và tiến hành niêm phong ký hiệu M. Ngoài ra còn thu giữ của H chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu đen, gắn biển số 89E1-693.99.

Cùng ngày CQCSĐT Công an huyện Văn Giang khám xét khẩn cấp nơi ở của H tại thôn DT, xã TD, huyện KC, tỉnh HY nhưng không thu giữ được đồ vật gì liên quan.

CQCSĐT Công an huyện Văn Giang trưng cầu giám định chất thu giữ của H trong niêm phong ký hiệu M. Tại bản kết luận số: 337/MT-PC09 ngày 29/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Chất dạng tinh thể màu trắng trong phong bì niêm phong ký kiệu M, có tổng khối lượng là 0,318gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra vụ án Phạm Văn H khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 26/10/2021, H mua gói ma túy trên tại đường ĐT 379 thuộc địa phận xã LN, huyện Văn Giang hết 250.000đ. Sau khi mua H mang về nhà thì gặp vợ là chị Lê Thị Thu H1, chị H1 nhờ H chở lên thị trấn VG để mua đồ cho con. H vẫn cầm gói ma túy ở lòng bàn tay trái và điều khiển xe mô tô Honda Vison màu đen, biển số 89E1-693.99 chở chị H1 đi lên thị trấn VG. Khoảng hơn 11 giờ cùng ngày H và chị H1 vào quán bánh tẻ của chị L ở thôn ĐN, thị trấn VG để ăn bánh. Khi đang ngồi ăn thì bị lực lượng Công an kiểm tra, H đã thả gói ma túy từ lòng bàn tay trái rơi xuống đất tại vị trí đang ngồi thì bị phát hiện, bắt quả tang.

CQCSĐT Công an huyện Văn Giang đã rà soát đối tượng bán ma túy cho H nhưng không xác định được lý lịch, địa chỉ của đối tượng nên không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Chiếc xe mô tô Honda Vison màu đen, biển số 89E1-693.99 là tài sản riêng của chị Lê Thị Thu H1. Chị H1 không biết việc H tàng trữ trái phép chất ma túy nên CQCSĐT Công an huyện Văn Giang không xử lý đối với chị H1 và ngày 18/01/2022 đã trả lại chiếc xe trên cho chị H1.

Tại bản cáo trạng số: 07/CT-VKSVG ngày 21/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên đã truy tố Phạm Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà hôm nay:

- Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; Điều 38;

Điểm a khoản 1 điều 46; điểm c khoản 1 điều 47 của Bộ luật hình sự. Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử phạt Phạm Văn H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/10/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định bên trong có 0,276g ma túy loại Methamphetamin. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo không tranh luận gì. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo trình bầy bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và rất hối hận, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

- Cơ quan điều tra, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

- Một số người người làm chứng vắng mặt không có lý do, bị cáo và đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vụ án vắng mặt họ. Xét thấy những người tham gia tố tụng vắng mặt nhưng họ đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án nên HĐXX căn cứ, khoản 1 điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục xét xử vụ án.

[2]. Về hành vi phạm tội:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 50 phút ngày 26/10/2021, tại cửa hàng bánh tẻ LB thuộc thôn ĐN, thị trấn VG, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, CQCSĐT Công an huyện Văn Giang phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép trên người 0,318gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cất giữ ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều luật theo bản Cáo trạng là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước đối với các chất gây nghiện. Hành vi của bị cáo còn huỷ hoại sức khoẻ, trí lực của chính bị cáo, phá hoại kinh tế, hạnh phúc gia đình cũng như làm phát sinh các loại tội phạm khác. Chỉ vì nghiện ma tuý, để thoả mãn cơn nghiện mà bị cáo bất chấp tác hại của ma tuý, coi thường pháp luật, cố ý tàng trữ để sử dụng nên cần xử lý bị cáo bằng một bản án thật nghiêm.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho H, Cơ quan điều tra Công an huyện Văn Giang đã rà soát nhưng không xác định được lý lịch, địa chỉ của đối tượng nên cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. HĐXX xét thấy, cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, cũng như góp phần phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Chiếc xe mô tô Honda Vison màu đen, biển số 89E1- 693.99 là tài sản riêng của chị Lê Thị Thu H1. Chị H1 không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy nên CQCSĐT Công an huyện Văn Giang không xử lý đối với chị H1 và ngày 18/01/2022 đã trả lại chiếc xe trên cho chị H1 là đúng quy định pháp luật nên không đặt ra xem xét.

- 0,276g Methamphetamin trong phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên, là chất ma túy Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

1. Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 điều 51; Điều 38; Điểm a khoản 1 điều 46; Điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự - Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136; Khoản 1 điều 293; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

2. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

3. Mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/10/2021.

4. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

5. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Tịch thu cho tiêu hủy 0,276g ma túy loại Methamphetamin trong phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 03/02/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Giang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Văn Giang)

6. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Giang - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về