Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 10/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/2022/HSST ngày 16/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2023/QĐXXST-HS ngày 27/02/2023 đối với bị cáo:

Lê Huỳnh Thanh T, sinh năm 1993 tại Ninh Thuận; Nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở hiện nay: khu phố x, phường M, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh P và bà Huỳnh Thị T1; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

1. Võ Duy M -sinh năm 1991 (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn P-P-N-Ninh Thuận.

2. Hùng Thị Thanh T2 -sinh năm 1977 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố y-P1-N-Ninh Thuận.

3. Lê Thị Kim L -sinh năm 1973 (có mặt). Địa chỉ: Khu phố z-P1-N-Ninh Thuận.

4. Trần Văn D -sinh năm 1968 (vắng mặt). Địa chỉ: Khu phố z-P1-N-Ninh Thuận.

5. Lê Huỳnh Thanh N - sinh năm 1995 (vắng mặt).

6. Lê Thanh P - sinh năm 1966 (có mặt). Địa chỉ: Khu phố x-M-P, Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

\ Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 12 giờ 25 phút ngày 23/8/2022, Đội Điều tra tổng hợp Công an huyện N phối hợp với Công an thị trấn P1 bắt quả tang Lê Huỳnh Thanh T đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà nghỉ TD thuộc khu phố r-P1-N. Cơ quan điều tra đã thu giữ tang vật trên người bị cáo và trong túi đồ cá nhân của bị cáo được 02 gói ma túy được bộc trong túi nylon trong suốt bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng và dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 nắp nhựa màu xanh có gắn một ống hút màu xanh trắng, 01 ống thủy tinh, 01 lưỡi dao lam và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 130 loại bàn phím, màu đen.

Qua điều tra xác định: Lê Huỳnh Thanh T và Võ Duy M có mối quan hệ tình cảm nam nữ. Khoảng 19 giờ ngày 22/8/2022, T và M đến thuê phòng số 103 tại Nhà nghỉ TD thuộc khu phố 5-P1. Sau đó T dùng điện thoại Nokia 130 liên lạc với Lưỡng để mua ma túy 800.000đồng. Sau khi mua được ma túy T mang về phòng 103 phân ra thành ra 2 túi nhỏ và bỏ ra một ít vào nỏ thủy tinh sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy T để toàn bộ dụng cụ tại phòng và đi tắm. Sau đó T đi ra thì thấy M vừa sử dụng ma túy xong và đang đặt dụng cụ xuống. Số ma túy còn lại T cất vào túi đồ cá nhân để sử dụng. Sáng ngày 23/8/2022, M đi làm, T ở lại phòng nghỉ, T cất 01 gói ma túy vào túi áo bên ngực trái và 01 gói ma túy vào túi tăm bông và dụng cụ sử dụng ma túy vào túi đồ cá nhân rồi đi ra trả phòng, do không có tiền thanh toán nên T ngồi tại quầy lễ tân Nhà Nghỉ TD chờ M thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang vào khoảng 12 giờ 20 phút cùng ngày.

Tại bản kết luận giám định số 176/KL-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Ninh Thuận kết luận: Chất tinh thể màu trắng dạng rắn bên trong 02 gói nylon trong suốt được hàn kín (M1) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1899g. Chất rắn dạng bột màu nâu nhạt bên trong nỏ thủy tinh (M2) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0026g.

Cáo trạng số 01/CT-VKS-HS ngày 15/12/2022 của Viện kiểm sát huyện N, truy tố bị cáo Lê Huỳnh Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Ngoài ra T khai nhận có mua của Bảo 01 gói ma túy 400.000 đồng tại khu vực Cổng làng B thuộc khu phố x-P1, nhưng T không nhớ rõ thời gian. Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được vật chứng nên không xử lý hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Huỳnh Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và Điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo T từ 06 đến 09 tháng tù.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 46, 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS đề nghị HĐXX tuyên: Tiêu hủy 01 gói ma túy 0,1100gam sau giám định và dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 lưỡi dao lam được bọc trong giấy, 01 nắp nhựa màu xanh được gắn 01 ống thủy tinh, 01 ống hút nhựa màu xanh trắng. Sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di dộng hiệu Nokia 130, màu đen, loại bàn phím của bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Đối với người tên Lưỡng và tên Bảo không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra. Đối với Trần Văn D, Nguyễn Thị Kim L, Hùng Thị Thu T2, Lê Minh Uy là người quản lý nhà nghỉ TD không biết bị cáo T sử dụng phòng 103 để tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuý nên không xử lý hình sự. Đối với Võ Duy M có hành vi tự ý sử dụng trái phép chất ma túy của T, T không rủ rê, không chứng kiến. Cơ quan Cảnh sát điều tra không bắt quả tang và không thu vật chứng ma túy tại thời điểm M sử dụng nên không xử lý hình sự.

Bị cáo T đồng ý với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa, không tranh luận gì.

Lời nói sau cùng trước khi HĐXX vào nghị án: Bị cáo T nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự, thủ tục, quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nên đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 12 giờ 25 phút ngày 23/8/2022, Đội Điều tra tổng hợp Công an N và Công an thị trấn P1 bắt quả tang Lê Huỳnh Thanh T đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà nghỉ TD thuộc khu phố 5-P1-N, thu giữ 02 gói ma túy với khối lượng 0,1925g loại Methamphetamine cùng dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 nắp nhựa màu xanh có gắn một ống hút màu xanh trắng, 01 ống thủy tinh, 01 lưỡi dao lam và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 130 loại bàn phím, màu đen. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS và Quyết định truy tố của Viện kiểm sát huyện N là có căn cứ.

Bị cáo Lê Huỳnh Thanh T là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, làm phát sinh, lây L các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với con người và đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn cố tình phạm tội. Với hành vi phạm tội của bị cáo như trên, HĐXX xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân: Trong quá trình chuẩn bị xét xử bị cáo Lê Huỳnh Thanh T đã bỏ trốn khỏi đia phương, vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, gây khó khăn khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên sau đó bị cáo đã ra đầu thú, nên cần xem xét khi lượng hình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, bị cáo đang có thai gần 04 tháng và đang có con nhỏ dưới 24 tháng tuổi. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s, n Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 BLHS. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng điều 54 BLHS để xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt là phù hợp.

[4] Xét quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát huyện N về việc định tội, định khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo tại phiên tòa. HĐXX xét thấy là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên chấp nhận.

[5] Các vấn đề khác: Đối tượng tên Lưỡng và tên Bảo không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với ông Trần Văn D, bà Nguyễn Thị Kim L, Hùng Thị Thu T2, Lê Minh Uy là người quản lý nhà nghỉ TD không biết bị cáo T sử dụng phòng 103 tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không xử lý hình sự đối với những người này. Đối với Võ Duy M có hành vi tự ý sử dụng trái phép chất ma túy của T, T không chứng kiến. Cơ quan Cảnh sát điều tra không bắt quả tang và không thu vật chứng ma túy tại thời điểm M sử dụng nên không xử lý hình sự là có căn cứ.

[6] Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS xử lý:

Quá trình điều tra xác định 01 điện thoại di dộng hiệu Nokia 130, màu đen, loại bàn phím, không có nắp phía sau là của bị cáo T sử dụng vào mục đích liên lạc mua trái phép chất ma tuý về sử dụng, có giá trị nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Số ma túy thu giữ trên người của bị cáo T sau khi trích gửi đi giám định còn lại 0,1100gam ma túy loại Methaphetamine được Nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 lưỡi dao lam được bọc giấy, 01 nắp nhựa màu xanh được gắn một ống thủy tinh và 01 ống hút nhựa màu xanh trắng-là tang vật phạm tội của bị cáo, không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo Lê Huỳnh Thanh T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật là 200.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s, n Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1.Tuyên bố: Bị cáo Lê Huỳnh Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.Xử phạt: Bị cáo Lê Huỳnh Thanh T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

3.Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên: Tịch thu tiêu hủy: Khối lượng hoàn lại sau giám định gồm mẫu M1 bên trong chứa 0,1100gam ma túy loại Methaphetamine và dụng cụ sử dụng chất ma túy gồm 01 lưỡi dao lam được bọc giấy, 01 nắp nhựa màu xanh được gắn một ống thủy tinh và 01 ống hút nhựa màu xanh trắng.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di dộng hiệu Nokia 130, màu đen, loại bàn phím, không có nắp phía sau, số IMEI 1: 359016097115763; số IMEI 2: 359016097115762, gắn sim Vietnammobile 058.684.0210.

Các vật chứng nêu trên hiện đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N. Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận ngày 20/12/2022.

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Huỳnh Thanh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về