TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOA LƯ, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 07/2024/HS-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01/02/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2023/TLST-HS ngày 26/12/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2024/QĐXXST-HS ngày 19/01/2024 đối với bị cáo:
Phạm Ngọc C, sinh năm 1996, tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: thôn N N, xã N N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn D và bà Bùi Thị Kim Q; vợ con chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 16/9/2023 đến ngày 25/9/2023 được trả tự do, ngày 08/11/2023 bị cáo bị bắt tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay, có mặt.
Người bào chữa: Bà Ninh Thị H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Ninh Bình, có mặt.
Người làm chứng: chị Nguyễn Thị T, chị Nguyễn Thị Vân A, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ, ngày 16/9/2023, tại phố Cầu Huyện, thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Tổ công tác Công an xã Ninh Mỹ phối hợp với Công an Thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư thấy Phạm Ngọc C có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Phạm Ngọc C tự giác lấy trong túi quần phía sau bên trái và giao nộp cho tổ công tác một túi nilon nhỏ, màu trắng trong, có gờ mép ở nắp mở túi màu xanh, kích thước 2 x 2 (cm), bên trong chứa chất dạng tinh thể màu trắng và khai nhận đó là ma túy “đá” vừa mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực cổng đá thuộc phố Cầu Huyện, thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư với giá 300.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ gói nhỏ của C, tiến hành cân xác định trọng lượng và niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 760/KL-KTHS-MT ngày 22/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:
Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1689 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra, xác định Phạm Ngọc C có tiền sử bệnh động kinh. Tại kết luận giám định số 373/KLGĐ ngày 07/11/2023 của Viện pháp y tâm thần Trung ương, kết luận: tại thời điểm ngày 16/9/2023 và tại thời điểm giám định đối tượng Phạm Ngọc C có Hội chứng nghiện gây ảo giác/Động kinh toàn thể cơn lớn chưa biến đổi nhân cách. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F16.2/G40.6. Tại các thời điểm trên đối tượng có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Sau giám định, vật chứng còn lại của vụ án gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 vỏ túi nilon màu trắng trong thu giữ của Phạm Ngọc C ngày 16/9/2023 được niêm phong trong một phong bì; 0,1112 gam Methamphetamine cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong hoàn lại sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì (hiện đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoa Lư theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/12/2023 giữa Cơ quan C sát điều tra công an huyện Hoa Lư và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoa Lư).
Bản cáo trạng số 01/CT-VKSHL ngày 25/12/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hoa Lư truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự (BLHS) xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Áp dụng Điều 47 của BLHS, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS), tịch thu tiêu hủy các vật chứng còn lại của vụ án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo - bà Ninh Thị H trình bày: Bị cáo đã thực hiện hành vi đúng như cáo trạng truy tố nên phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo là người khuyết tật, có điều kiện hoàn C kinh tế khó khăn, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị HĐXX áp dụng các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS để cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị miễn án phí cho bị cáo do bị cáo là người khuyết tật.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi nêu trên, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện Kiểm sát, đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất và được miễn án phí do là người khuyết tật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về tội danh: Bị cáo là người đã thành niên, nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện vào hồi 16 giờ, ngày 16/9/2023, tại khu vực phố Cầu Huyện, thị trấn Thiên Tôn, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, bị cáo có hành vi cất giữ 0,1689 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.
Điều 249 - Tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Aphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam;
….” [2] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo được áp dụng tình tiết thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Bị cáo là người khuyết tật, đã tự giác giao nộp ma túy khi bị kiểm tra nên cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS.
[3] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chế độ quản lý của nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng không tốt đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân biết tuân thủ pháp luật cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng.
[4] Vật chứng, tài sản đã thu giữ: Những vật chứng còn lại của vụ án là vật cấm tàng trữ, lưu hành, vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Bị cáo là người bị khuyết tật nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoa Lư, điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hoa Lư, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Ngọc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc C 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam (08/11/2023), được trừ thời hạn đã tạm giữ là 09 ngày (từ 16/9/2023 đến ngày 25/9/2023).
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS; tịch thu tiêu hủy vật chứng còn lại của vụ án: 0,1112 gam Methamphetamine và toàn bộ vỏ bao gói, phong bì niêm phong.
(Các vật chứng được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoa Lư theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/12/2023 giữa Cơ quan C sát điều tra công an huyện Hoa Lư và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoa Lư).
3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2024/HS-ST
Số hiệu: | 07/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoa Lư - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về