Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 17 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Phạm Đức Tố H, sinh ngày 20 tháng 4 năm 1987 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Phạm Đức L và bà Đỗ Thị P; sống chung với chị Nguyễn Thị L (không đăng ký kết hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: 01 tiền án đã được xóa, Bản án số 43/2005/HSST ngày 02/3/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 05 năm tù về tội Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; 01 tiền sự đã được xóa, Quyết định số 03/QĐ-TA ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân quận Kiến An về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị tạm giữ ngày 06/4/2022 đến ngày 09/4/2022 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Thái H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05/4/2022, một người đàn ông mới quen rủ H ra thị trấn Cát Bà du lịch và hứa hẹn mang theo ma túy đá để cùng sử dụng. Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 06/4/2022, người đàn ông kia đến đón H tại nhà ở phường Tràng Minh, quận Kiến An để chở ra thị trấn Cát Bà và đưa cho H 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có túi nilon chứa ma túy đá trên đường đi. H cất giấu số ma túy trên vào trong quần lót đang mặc. Khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, khi đến bến phà Gót, người đàn ông kia đi đổ xăng, còn H đi vào khu vực mua vé phà thì bị tổ công tác Đồn biên phòng Cát Hải phát hiện, bắt quả tang thu giữ số ma túy trên, 01 điện thoại Nokia 105 màu đen và 01 căn cước công dân mang tên Phạm Đức Tố H.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên tại cơ quan điều tra đã khai: Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 06/4/2022, ông có chứng kiến Đồn Biên phòng Cát Hải bắt quả tang Phạm Đức Tố H tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực bến phà Gót, huyện Cát Hải. Tổ công tác Đồn Biên phòng Cát Hải đã thu giữ của H một vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có một túi nilon màu trắng chứa chất bột màu trắng, H khai là ma túy đá mang từ Hải Phòng ra Cát Bà với mục đích để sử dụng.

Kết luận giám định số 139/KL-KTHS(MT) ngày 07/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,94 gam, là loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 09/CT-VKS ngày 24/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã nêu, xác nhận việc điều tra, truy tố đối với bị cáo là không oan sai; trong quá trình điều tra, không bị ép buộc khai báo không đúng sự thật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải giữ quyền công tố luận tội:

Về tội danh và hình phạt: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép 4,94 gam Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do đó, Viện Kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đại diện Viện kiểm sát phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 48 đến 54 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo vì điều kiện, hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy hoàn lại sau giám định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận đồng thời thừa nhận luận tội của Viện kiểm sát về tội danh cũng như mức hình phạt là đúng. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Đồn Biên phòng Cát Hải, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án:

[2] Bị cáo khai nhận khoảng 14 giờ 00 phút ngày 06/4/2022, tại khu vực bến phà Gót, huyện Cát Hải, bị cáo bị tổ công tác Đồn Biên phòng bắt quả tang hành vi tàng trữ rái phép chất ma túy. Số ma túy trên là do một người đàn ông mới quen đưa cho để mang ra thị trấn Cát Bà để cùng sử dụng.

[3]Kết luận giám định số 139/KL-KTHS(MT) ngày 07/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,94 gam, là loại Methamphetamine.

[4] Từ những phân tích trên đây có đủ cơ sở để kết luận: Phạm Đức Tố H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[5] Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng người, đúng pháp luật.

[6] Hành vi phạm tội của bị cáo vi phạm nghiêm trọng pháp luật hình sự, gây mất trật tự trị an, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị của địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, xâm phạm đến khách thể là chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy, chất gây nghiện của Nhà nước.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[8] Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án, Bản án số 43/2005/HSST ngày 02/3/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 05 năm tù về tội Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; 01 tiền sự, Quyết định số 03/QĐ-TA ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Mặc dù các tiền án, tiền sự nói trên đều đã được xóa, nhưng điều đó chứng tỏ bị cáo là người có nhân thân xấu, khó giáo dục tại cộng đồng, bị cáo đã bị áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc nhưng vẫn tái nghiện, bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.

[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[10] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

[11] Chât ma tuy sau giám đ ịnh thu được của bị cáo là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[12] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, đã qua sử dụng, gắn sim số 0982259512 và 01 căn cước công dân số 031087006454 mang tên Phạm Đức Tố H, quá trình điều tra xác định không liên quan đến việc việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải đã trả lại cho gia đình bị cáo là có căn cứ.

[13] Về vấn đề khác: Đối với người đàn ông đưa ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết, quá trình điều tra cũng không xác định được cụ thể tên, tuổi và địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở lập hồ sơ xử lý là có căn cứ.

[14] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Đức Tố H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 06/4/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 1 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo được niêm phong trong 01 (Một) phong bì số 139MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng hoàn lại sau giám định theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 24/6/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về