Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN ĐỒN - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 18 tháng 3 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022; Thông báo thay đổi thời gian xét xử số: 02/2022/TB-TA ngày 25/02/2022 đối với bị cáo:

Bùi Thanh L – Tên gọi khác: Không; sinh ngày 08/10/1991, tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện V, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn C và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Vũ Thị Ngọc H và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt quả tang và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: chị Vũ Thị Ngọc H – sinh năm 1991; nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện V, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

* Người chứng kiến:

1. Anh Trần Văn Th. Vắng mặt.

2. Anh Phạm Quốc T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 30 phút ngày 22/12/2021, tại thôn 11, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Công an huyện Vân Đồn phát hiện, bắt quả tang Bùi Thanh L có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được cất giấu trong 01 tai nghe màu đen trắng; 3.615.000 đồng tiền Việt Nam; 01 điện thoại Samsung S21 màu đen; 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh; 01 xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 14S1-102.99.

Tại Kết luận giám định số: 104/KLGĐ ngày 30/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Mẫu vật thu giữ của Bùi Thanh L là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lượng: 0,999 gam (không phẩy chín chín chín gam).

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Thanh L khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, ngày 20/12/2021, bị cáo dùng điện thoại Nokia gắn sim số 0936.543.121 liên lạc với người tên Tùng (không rõ lai lịch, địa chỉ) để mua ma túy. Sau đó bị cáo điều khiển xe mô tô BKS 14S1-102.99 đến khu đô thị Thống Nhất, thị trấn Cái Rồng, huyện Vân Đồn gặp người tên Tùng mua 01 túi nilon ma túy đá với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo để túi ma túy vào bên trong chiếc tai nghe màu đen trắng và cho vào cốp xe rồi đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ 30 phút ngày 22/12/2021, bị cáo điều khiển xe mô tô BKS 14S1-102.99 đi tìm nơi sử dụng ma túy, khi đi đến khu vực thôn 11, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị Ngọc H khai: chị là vợ của bị cáo L, ngày 22/12/2021 bị cáo L bị Công an bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của L 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại SH125i, BKS 14S1-102.99 và 3.615.000 đồng. Nguồn gốc số tiền 3.615.000 đồng bị cáo L bị thu giữ là số tiền ngày 20/12/2021 chị đưa cho L để đóng tiền học phí cho con và đóng tiền điện, nước sinh hoạt của gia đình, số tiền này là tiền do chị lao động mà có; còn chiếc xe mô tô BKS 14S1-102.99 là tài sản chung của chị và bị cáo L, mục đích mua chiếc xe này làm phương tiện đi lại của hai vợ chồng. Ngày 20 và ngày 22/12/2021 bị cáo L sử dụng xe đi đâu làm gì chị không biết, chị đã được cơ quan Công an trả lại chiếc xe mô tô và số tiền 3.615.000 đồng, chị không có yêu cầu gì.

Người chứng kiến Trần Văn Th và Phạm Quốc T vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có lời khai trong hồ sơ thể hiện: Vào khoảng 19 giờ 30 ngày 22/12/2021 tại thôn 11, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn các anh được cơ quan Công an mời chứng kiến việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với một nam thanh niên về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Người thanh niên này khai tên là Bùi Thanh L – sinh năm 1991; trú tại: thôn Đ, xã Đ, huyện V, tỉnh Quảng Ninh, Công an thu giữ của Bùi Thanh L 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy được cất giấu trong 01 tai nghe màu đen trắng, L khai nhận túi chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá, L mua về để sử dụng cá nhân. Ngoài ra Công an còn thu giữ của L 3.615.000 đồng tiền Việt Nam; 01 điện thoại Samsung S21 màu đen; 01 điện thoại Nokia 105 màu xanh; 01 xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 14S1-102.99.

Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKSVĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh truy tố Bùi Thanh L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Đồn vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Bùi Thanh L từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo, ngày 22/12/2021 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 thu giữ của bị cáo Long.

+ Tịch thu, tiêu hủy 0,95 gam (không phẩy chín lăm gam) Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 104/KLGĐ ngày 30/12/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định; 01 tai nghe màu đen trắng hình vòng cung và 01 sim điện thoại số 0936.543.121.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì với lời luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh, điều kiện của bị cáo và cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Đồn, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Đồn, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bùi Thanh L, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vũ Thị Ngọc H, lời khai của người chứng kiến Trần Văn Th, Phạm Quốc T; phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, bản ảnh vật chứng, Biên bản kiểm tra điện thoại di động của Công an huyện Vân Đồn; Kết luận giám định số 104/KLGĐ ngày 30/12/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và Cáo trạng số 01/CT-VKSVĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Hồi 19 giờ 30 phút ngày 22/12/2021, tại thôn 11, xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Bùi Thanh L có hành vi tàng trữ trái phép 0.999gam (không phẩy chín chín chín gam) ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Vân Đồn bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo Bùi Thanh L có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng thiếu tu dưỡng rèn luyện bản thân, bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, đã cố ý đi mua 0,999 gam Methamphetamine để sử dụng nhằm đáp ứng cho nhu cầu của bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn vi phạm Luật Phòng, chống ma túy; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, đúng với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố, nên chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo. Để tăng cường biện pháp đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn huyện nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo, cần có một mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ăn hối cải về hành vi phạm tội của mình, Bố bị cáo là người có công với nước, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung nêu trên. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vì mục đích vụ lợi, làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, không giữ chức vụ gì, là người nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng các hình phạt bổ sung nêu trên đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu xanh, gắn sim số 0936.543.121 bị cáo sử dụng để liên lạc, trao đổi với đối tượng tên Tùng người mà bị cáo khai bán ma túy cho bị cáo. Xét thấy đây là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, chiếc sim số 0936.543.121 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy.

- 0,95 gam (không phẩy chín lăm gam) Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 104/KLGĐ ngày 30/12/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định. Xét thấy Methamphetamine là chất Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 tai nghe màu đen trắng hình vòng cung thu giữ của bị cáo không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 điện thoại Samsung S21 màu đen; 01 xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 14S1-102.99 và 3.615.000 đồng thu giữ của bị cáo. Xét chiếc điện thoại là tài sản thuộc quyền sử hữu của bị cáo, số tiền 3.615.000 đồng là tiền của chị H đưa cho bị cáo đi đóng tiền học cho con, tiền điện nước không liên quan đến tội phạm; chiếc xe mô tô là tài sản chung của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị Ngọc H, đây là tài sản làm phương tiện đi lại sinh hoạt hàng ngày của bị cáo và chị H, bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy và đi sử dụng ma túy chị H không biết nên không tịch thu. Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại, xe mô tô và tiền cho chị H, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng tên Tùng, theo bị cáo khai là người bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, nên không có cơ sở xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: bị cáo Bùi Thanh L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Bùi Thanh L 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo, ngày 22/12/2021.

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 thu giữ của bị cáo L.

+ Tịch thu, tiêu hủy 0,95 gam (không phẩy chín lăm gam) Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 104/KLGĐ ngày 30/12/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại sau giám định; 01 (một) tai nghe màu đen trắng hình vòng cung và 01(một) sim điện thoại số 0936.543.121.

(Tình trạng như tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/02/2022 giữa Công an huyện Vân Đồn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Vân Đồn).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Bùi Thanh L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1, 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Đồn - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về