Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 07/2022/HSST NGÀY 09/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 3 năm 2022, tại Ủy ban nhân dân xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2022/HSST ngày 16 tháng 2 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Ôn Văn C, sinh ngày 04/11/2002; trú tại: Thôn Đ, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc; văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc Tịch: Việt Nam; con ông Ôn Văn H và bà Lưu Thị S; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2021 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Ôn Văn H, sinh năm 1963; trú tại: Thôn Đ, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 12/11/2021, Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Ôn Văn C đang có hành vi tàng trữ 01 gói ma túy tại thôn Núc Thượng, xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon bên trong chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng ở túi áo khoác phía dưới bên trái trên người C đang mặc, Cương tự khai nhận đó là ma túy được cho để sử dụng. Vật chứng được niêm phong theo đúng quy định ký hiệu M1; tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đen, BKS 88E1 - 023.05, đã cũ.

Cùng ngày 12/11/2021 Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo ra Quyết định trưng cầu giám định số 391/ĐCSKT-MT đối với mẫu vật ký hiệu M1 thu giữ của Ôn Văn Cương. Ngày 16/11/2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có Kết luận giám định số 2989/KLGĐ, kết luận: Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,9698g (không phảy chín sáu chín tám gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.

Cơ quan giám định đã hoàn trả lại mẫu vật sau giám định M1 = 0,9474 gam cùng toàn bộ bao gói được niêm phong.

Về nguồn gốc ma túy, Ôn Văn C khai nhận: Trên đường đi làm về, C được một người bạn quen biết tên là Dũng (C không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể và không nhớ đặc điểm nhận dạng của người nam giới này) cho để mang về sử dụng. C cất gói ma túy trong túi áo, trên đường đi về thì bị bắt quả tang. Đối với người nam giới đã cho C ma túy do không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể và không nhớ đặc điểm nhận dạng của người nam giới này nên Cơ quan điều tra không đủ thông tin để xác minh.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đen, BKS: 88E1-023.05 tạm giữ của C. Qúa trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của ông Ôn Văn H (là bố đẻ của C) cho C mượn để đi làm. Vì không biết C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với ông H. Ngày 24/01/2022 Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông H chiếc xe mô tô nêu trên. Sau khi nhận lại tài sản ông H không có ý kiến gì khác.

Tại Cáo trạng số 16/CT-VKSTĐ ngày 16/02/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo đã truy tố Ôn Văn C về tội “Tàng trữ phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà đã phân tích hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ôn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Ôn Văn C từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định là M1 = 0,9474 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói (có đặc điểm như biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định); xác nhận Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho ông Ôn Văn H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đen, BKS: 88E1-023.05;

Tại phiên tòa bị cáo Ôn Văn C đã thành khẩn khai nhận và rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, khi nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với các chứng cứ khác đã được thu thập và phù hợp với Cáo trạng đã được Đại diện Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa. Do vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Ôn Văn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt của bị cáo được qui định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) ... Methamphetamine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam;”.

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý. Ma tuý là một tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, là nguyên nhân phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung;

[2] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Do vậy cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có thu nhập nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

[4] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định là M1 = 0,9474 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói; Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho ông Ôn Văn H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đen, BKS: 88E1-023.05, sau khi nhận lại tài sản ông Hai không có ý kiến gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết;

[5] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[6] Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được Điều tra viên, Kiểm sát điều tra, thu thập theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng mọi hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong việc điều tra, truy tố đối với bị cáo;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Ôn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Ôn Văn C 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 12/11/2021;

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định là M1 = 0,9474 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói;

(có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/02/2022)

4.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án án của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 07/2022/HSST

Số hiệu:07/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về