Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 06/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 153/2022/TLST- HS ngày 08/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2022/QĐXXST- HS ngày 28/12/2022, đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1975 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Q và bà Nguyễn Thị H; vợ: Hà Thị T (đã ly hôn); con: Có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 06/10/2022, chuyển tạm giam từ ngày 12/10/2022 đến nay; có mặt.

Người làm chứng: Anh Kiều Tiến C, sinh năm 1987; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 06/10/2022, Phạm Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (viết tắt là BKS) 30Z6-xxxx đi từ nhà đến đoạn đường thôn Th, xã T, huyện T thì gặp bạn nghiện mới quen (không biết tên tuổi, địa chỉ). Sau khi nói chuyện thì T đã đưa 150.000đ cho người này để đi mua ma túy về sử dụng, người này cầm tiền rồi điều khiển xe mô tô chở T đi đến đoạn đường phường Tr, thành phố P thì dừng xe, T xuống xe đứng đợi, còn người thanh niên điều khiển xe mô tô đi đâu một lúc sau quay lại đưa cho T 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, T biết bên trong có ma túy nên không mở ra kiểm tra mà cầm trong lòng bàn tay phải. Sau đó người thanh niên điều khiển xe chở T đi đến đoạn đường thuộc tổ 9, phường Tr, thành phố P thì gặp tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra, người thanh niên dừng xe lại bỏ chạy thoát, còn T bị giữ lại. Tại chỗ T tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận chất bột màu trắng dạng cục là ma túy, mục đích cất giữ là để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa T về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Thu giữ vật chứng gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 xe mô tô BKS 30Z6-xxxx; 01 đăng ký xe mô tô BKS 30Z6-xxxx; 01 Căn cước công dân mang tên Phạm Văn T.

Ngày 07/10/2022, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Văn T tại thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam, Quá trình khám xét không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 560/PC09-MT ngày 11/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì kí hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,137 gam loại: Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS-PL ngày 07/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Phạm Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Phạm Văn T theo nội dung bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì. Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX):

+ Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2022.

+ Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại Heroine được hoàn trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng. Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đỏ đen, BKS 30Z6-xxxx và 01 đăng ký mô tô, xe máy số 03xxxx mang tên Hoàng Vũ H. Trả lại cho bị cáo 01 Căn cước công dân số 035075xxxx mang tên Phạm Văn T, song giao cho Cơ quan thi hành án phạt tù nơi bị cáo chấp hành án tạm giữ để trả lại bị cáo T khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 28 Luật căn cước công dân.

+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố, bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 06/10/2022, tại đoạn đường thuộc tổ 9, phường Tr, thành phố P, Phạm Văn T đang cất giữ trái phép khối lượng 0,137 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Phủ Lý trên đường đi làm nhiệm vụ phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với Phạm Văn T là có căn cứ, phù hợp với pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác. Do vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có công việc, thu nhập ổn định, mục đích tàng trữ là để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng và tài sản đã thu giữ:

Đối với số ma túy đã thu giữ của bị cáo được hoàn trả lại sau giám định cùng toàn bộ bao gói là vật cấm tàng trữ, lưu hành; đối với 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đỏ đen, BKS 30Z6-xxxx và 01 đăng ký mô tô xe máy số 03xxxx mang tên Hoàng Vũ H là tài sản hợp pháp của bị cáo T, bị cáo đã sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy sử dụng nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 Căn cước công dân số 03507501xxxx mang tên Phạm Văn T là giấy tờ tùy thân của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ của Phạm Văn T: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T khai số ma túy trên là do bị cáo góp tiền bạn nghiện mới quen mua để sử dụng, bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ của người này. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an xã T, huyện T và Công an phường Tr, thành phố P xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này. Ngoài lời khai của bị cáo T thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ (ngày 06/10/2022).

3/ Xử lý vật chứng và tài sản đã thu giữ:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy loại: Heroine trong 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số: 560/KTHS và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu đỏ - đen, số máy 2264062, số khung 505308, BKS 30Z6-xxxx và 01 đăng ký xe mô tô số 03xxxx mang tên Hoàng Vũ H.

Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T 01 Căn cước công dân số 03507501xxxx mang tên Phạm Văn T, song giao cho Cơ quan thi hành án phạt tù nơi bị cáo T chấp hành án tạm giữ để trả lại bị cáo khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngày 08/12/2022).

4/ Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 06/2023/HS-ST

Số hiệu:06/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về