Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 06/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2021/TLST-HS ngày 10/01/2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST- HS, ngày 10/01/2022, đối với bị cáo:

Mai Văn D; sinh ngày: 10/02/1980; tại: tỉnh Hòa Bình; nơi đăng ký NKTT: tổ T, phường Trung M, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; hiện tạm trú: bản C, xã D, huyện Mi, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mai Xuân T (đã chết) và bà: Hoàng Thị L, sinh năm 1952; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự; không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/10/2021 đến ngày 11/10/2021 chuyển tạm giam, ngày 02/11/2021 thay thế tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 22 giờ 10 phút ngày 05/10/2021, Đồn biên phòng cửa khẩu Quốc tế Cha Lo – Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Bình trong quá trình làm nhiệm vụ tại chốt kiểm soát liên ngành phòng chống dịch Covid 19 tại Km 140+400 quốc lộ 12A thuộc bản Cha Lo, xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, tiến hành dừng kiểm tra Mai Văn Dũng điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28H1 – 00735 thì phát hiện trong lòng bàn tay trái D có một đoạn ống hút bằng nhựa màu vàng, có sọc màu đỏ, dài khoảng 02cm, bên trong có 04 viên nén hình tròn, màu hồng, trên mặt của mỗi viên đều có ký hiệu “WY” . D khai nhận đó là ma túy loại hồng phiến, D cất giấu để sử dụng. Đồn biên phòng cửa khẩu Quốc tế Cha Lo đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật, mẫu ký hiệu A.

Tiến hành khám xét khẩn cấp phương tiện xe máy mang Biển kiểm soát 28H1 – 007.35 mà D đang điều khiển và chỗ ở của Mai Văn D ở bản ChaLo, xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa không phát hiện được tài liệu, đồ vật gì.

Quá trình điều tra Mai Văn D khai nhận: khoảng 12 giờ ngày 05/10/2021 khi Dũng đi bốc hàng tại cửa khẩu Quốc tế Cha Lo thì được một người đàn ông người Thái Lan, không rõ tên tuổi, địa chỉ cho 05 viên ma túy loại hồng phiến, sau đó trở về nhà Dũng sử dụng hết 01 viên, còn lại 04 viên D cất giấu để tiếp tục sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại bản kết luận giám định số 1166/GĐ-PC09 ngày 08/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận:

Mẫu ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,425g.

Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự: 323, danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Dũng không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa đã tạm giữ:

1. Số ma túy sau khi giám định được để trong 01 phong bì thư dán kín ghi:

“1166/GĐ-PC09”, “Mẫu ký hiệu A”. Được niêm phong bằng chữ ký của những người tham giam niêm phong và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ngoài cùng dán băng dính trong suốt.

2. 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu WAVE màu đỏ, gắn BKS: 28H1 – 00735; số máy: HC12E5074135; số khung: RLHHC1216DY074116. Xe đã qua sử dụng.

3. 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng, đã qua sử dụng, số IMEI 1: 354890387075654/01, số IMEI 2: 356995627075659/01.

Quá trình điều tra xác định: chiếc xe mô tô tạm giữ có đặc điểm như trên là của Mai Văn D mua của một người tên Thắng, không rõ địa chỉ cụ thể, không có giấy tờ mua bán cũng như giấy tờ liên quan đến chiếc xe, biển số 28H1 – 00735 là biển số giả, kết quả tra cứu biển số này đứng tên của một người khác hiện đang hoạt động bình thường. Còn chiếc điện thoại di động là điện thoại của D sử dụng để liên lạc cá nhân.

Bản cáo trạng số: 04/CT-VKSMH ngày 10/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hoá quyết định truy tố bị cáo Mai Văn D về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

tuyên bố bị cáo Mai Văn D phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo D từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: số ma túy sau khi giám định được để trong 01 phong bì thư dán kín ghi: “1166/GĐ-PC09”, “Mẫu ký hiệu A”. Được niêm phong bằng chữ ký của những người tham giam niêm phong và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ngoài cùng dán băng dính trong suốt; căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo D: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng, đã qua sử dụng, số IMEI 1: 354890387075654/01, số IMEI 2: 356995627075659/01. Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu WAVE màu đỏ, gắn BKS: 28H1 – 00735; số máy: HC12E5074135; số khung: RLHHC1216DY074116. Xe đã qua sử dụng trả lại cho Công an huyện Minh Hóa và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

- bị cáo Mai Văn D không có ý kiến gì quyết định truy tố VKSND huyện Minh Hóa và bản luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo D khai nhận hành vi tàng trữ trái phép ma túy của mình, chiếc xe máy không có giấy tờ thì do Hội đồng xét xử quyết định, D xin lại chiếc điện thoại.

- bị cáo D trình bày lời nói sau cùng: đã hối hận về hành vi phạm tội của mình, bản thân bị cáo là người nhiễm HIV nên mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Minh Hóa, Viện kiểm sát huyện Minh Hóa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: vào lúc 22 giờ 10 phút, ngày 05/10/2021 tại Km 140+400 Quốc lộ 12A, thuộc bản Cha Lo, xã Dân Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, Mai Văn D đã có hành vi tàng trữ 0,425 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự thì “"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:…..

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” như vậy hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo Dũng đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội đó phù hợp và các tài liệu, chứng cứ, vật chứng đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Do đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo Mai Văn D phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hóa truy tố bị cáo D về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3]. Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, ma túy là nguyên nhân của các loại tội phạm, làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội. Bị cáo biết mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vì xem thường pháp luật nên bị cáo đã phạm tội. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng.

Tình tiết tăng nặng: không Tình tiết giảm nhẹ: bị cáo D tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử sẽ xem xét đề nghị của Kiểm sát viên về các tình tiết giảm nhẹ, xử lý vật chứng.

[6]. Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo D ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội.

[7]. Về vật chứng vụ án: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư dán kín ghi: “1166/GĐ-PC09”, “Mẫu ký hiệu A”, được niêm phong bằng các chữ ký của những người tham gia niêm phong và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình.

Căn cứ điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo D: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng, đã qua sử dụng, số IMEI 1: 354890387075654, số IMEI 2: 356995627075659.

Đối với: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu WAVE màu đỏ, BKS: 28H1 – 00735; số máy: HC12E5074135; số khung: RLHHC1216DY074116, xe đã qua sử dụng do Cơ quan CSĐT Công an huyện Minh Hóa thu giữ, Hội đồng xét xử xét thấy: chiếc xe này không phải là vật chứng của vụ án, do Cơ quan CSĐT Công an huyện Minh Hóa chưa làm thủ tục ra thông báo tìm chủ sở hữu của tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự, VKSND huyện Minh Hóa cũng chưa có yêu cầu Cơ quan CSĐT Công an huyện Minh Hóa làm thủ tục nói trên nên cần trả lại chiếc xe này cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Minh Hóa giải quyết theo thẩm quyền.

[8]. Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội có thể bị phạt tiền. Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9]. Về án phí: bị cáo D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công.

[10]. Trong vụ án này còn có người đàn ông lạ mặt, người nước Thái Lan cho D ma túy để sử dụng, nhưng D không biết tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm cụ thể nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: tuyên bố bị cáo Mai Văn Dũng phạm tội: “tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Văn D 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/10/2021 đến ngày 01/11/2021.

Thời gian bảo lĩnh không quá thời hạn kể từ ngày tuyên án cho đến thời điểm bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

2. Về xử lý vật chứng: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư dán kín ghi: “1166/GĐ-PC09”, “Mẫu ký hiệu A”, được niêm phong bằng các chữ ký của những người tham gia niêm phong và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình.

Căn cứ điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo D: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng, đã qua sử dụng, số IMEI 1: 354890387075654, số IMEI 2: 356995627075659.

Trả lại cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Minh Hóa: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu WAVE màu đỏ, BKS: 28H1 – 00735; số máy: HC12E5074135; số khung: RLHHC1216DY074116, xe đã qua sử dụng, để giải quyết theo thẩm quyền.

Số vật chứng trên đã đựơc chuyển giao và hiện đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Minh Hóa theo biên bản giao, nhận hồ sơ vật chứng ngày 12/01/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa.

3. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Mai Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (21/01/2022)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về