Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 17/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 135/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Đặng Văn T, sinh ngày 02/08/1993; tại Vĩnh Phúc; giới tính: Nam; địa chỉ: Tổ dân phố T, phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đặng Ngọc T và con bà Nguyễn Thị S; có vợ và 01 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2021 đến nay, có mặt;

* Người chứng kiến:

-Anh Nguyễn Tiến C, sinh năm 1976, vắng mặt;

-Anh Nguyễn Tiến T, sinh năm 1978, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 10 phút ngày 12 tháng 11 năm 2021, Đặng Văn T đang ngồi uống nước ở khu vực dốc T thuộc tổ 6, phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc thì có người bạn nghiện mới quen tên là T đi xe mô tô đến rủ T đi mua ma túy để cùng sử dụng. Đặng Văn T đồng ý, nên T điều khiển xe môtô chở T đến khu vực gần cổng trường mầm non T thuộc tổ dân phố số 3 Đ, phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc thì dừng xe. Lúc này T gọi điện thoại cho ai đó để hỏi mua ma túy, sau đó T chỉ tay về hướng cột điện rồi bảo T đến lấy ma túy bên trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng để ở gần cột điện. Đặng Văn T đi bộ đến vị trí cột điện ở gần đó cầm bao thuốc lá Thăng Long, mở ra xem thì thấy bên trong có 01 túi ma túy tổng hợp dạng đá. T cầm bao thuốc lá Thăng Long bên trong có túi ma túy đá, để quay lại vị trí T đang đứng đợi để tìm nơi sử dụng, thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng T bộ tang vật, còn T phóng xe mô tô bỏ chạy thoát.

*Cơ quan điều tra thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 túi nilon màu trắng viền đỏ, bên trong túi nilon này có chứa các tinh thể dạng đá màu trắng. Đặng Văn T khai nhận đó là túi ma túy đá, được niêm phong trong phong bì kí hiệu A1 theo quy định của pháp luật; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A53 màu xanh, màn hình cảm ứng bị nứt vỡ;

Cơ quan Công an cũng đã thu và niêm phong mẫu nước tiểu của T vào một chai nhựa để phục vụ công tác giám định chất ma túy theo quy định.

Tại Bản kết luận giám định số: 2892/KLGĐ ngày 16/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3921gam (Không phảy ba chín hai một gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.” Tại Bản kết luận giám định số: 3010/KLGĐ ngày 17/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc; kết luận: “Tìm thấy chất ma túy Methamphetaminetrong mẫu chất lỏng màu vàng ghi là mẫu nước tiểu thu của Đặng Văn T -SN: 1993, HKTT: TDP T, phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc gửi đến giám định” Cơ quan giám đinh đã hoàn lại mẫu trả A1= 0,3378g cùng T bộ bao gói và 01 vỏ chai nhựa;

Đối với đối tượng tên T mà T khai rủ và chở T đi mua ma túy, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau;

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Đặng Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm của bản thân như đã nêu trên, lời khai của T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số: 04/CT - VKSPY ngày 20 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo từ 01 năm 08 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12 tháng 11 năm 2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng như Cáo trạng đã đề cập; bị cáo phải nộp án phí theo quy định;.

Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của bị cáo, ý kiến của Kiểm sát viên;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phúc Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo Đặng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như: Lời khai của người chứng kiến; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Bản kết luận giám định; phù hợp với vật chứng đã thu giữ hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 14 giờ 30 phút ngày 12 tháng 11 năm 2021, tại khu vực tổ dân phố số 3 Đ, phường T, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc; với mục đích để sử dụng Đặng Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3921 gam ma túy Methamphetamine; thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đặng Văn T đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như sau: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy…thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…….

c) ……………..Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo theo Cáo trạng số: 04/CT – VKSPY ngày 20 tháng 12 năm 2021 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Văn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng tình hình trị an địa phương. Do vậy cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Xét nhân thân, tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo học hết lớp 9 thì nghỉ học, nghiện ma túy từ năm 2020. Trong quá trình điều tra truy tố xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm của mình; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cần phải áp dụng hình phạt tù giam mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và làm rõ tại phiên tòa bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng, hiện bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Vì vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo là phù hợp.

[6] Đối với đối tượng tên T mà T khai rủ và chở T đi mua ma túy, Cơ quan điều tra xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch, địa chỉ nên tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau là phù hợp;

[7] Về vật chứng vụ án:

Cần tịch thu, tiêu hủy mẫu A1= 0,3378g cùng T bộ bao gói, 01 chai nhựa, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long;

Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động OPPO A53, vì không có liên quan đến hành vi phạm tội; nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án;

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12 tháng 11 năm 2021.

*Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy mẫu A1= 0,3378gam cùng toàn bộ bao gói và 01 vỏ chai nhựa chứa 0,0ml đã niêm phong và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A53, màu xanh, màn hình cảm ứng bị nứt vỡ; nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án;

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 22 tháng 12 năm 2021, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phúc Yên).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; buộc bị cáo Đặng Văn T phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phúc Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về