TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TC, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 04/2021/HSST NGÀY 22/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện TC xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2021/HSHST-QĐ, ngày 19 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Quàng Văn M, tên gọi khác: Không; sinh năm 1995 tại huyện TC Sơn La; nơi cư trú: bản BN, xã TM, huyện TC, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn D, sinh năm 1967 và bà Lò Thị H, sinh năm 1971; chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 11/9/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố SL, tỉnh Sơn La xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy ( chưa được xóa án tích), tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16 tháng 6 năm 2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21 giờ 00 phút ngày 16/6/2021, Tổ công tác đội cảnh sát hình sự Công an huyện TC, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực Thôn 1, xã TL, huyện TC, phát hiện bắt quả tang Quàng Văn M có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa bột cục màu trắng nghi là Heroine và 02 ( hai) viên nén màu hồng (Theo Quàng Văn M khai là Heroine và ma túy tổng hợp).
Hồi 08 giờ 00 phút ngày 17/6/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niên phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: số bột cục màu trắng trong gói nilon giấy màu trắng có khối lượng 0,16 gam. Trích toàn bộ 0,16 gam, ký hiệu M1 gửi giám định; 02 (hai) viên nén màu hồng trong gói nilon màu trắng có khối lượng 0,21 gam. Trích toàn bộ 0,21 gam, ký hiệu M2 gửi giám định Kết luận giám định số: 1172/KL ngày 23/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,16 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu M2 là ma túy; loại Methamphetamine khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,21 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,16 gam, loại Heroine; 0,21 gam loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Quá trình điều tra Quàng Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 16/6/2021, Quàng Văn M đi bộ một mình từ nhà ở bản BN, xã TM, huyện TC, tỉnh Sơn La xuống xã TL, huyện TC mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi M đi đến khu vực bản Táng A, xã TL, huyện TC, tỉnh Sơn La, M gặp và hỏi mua được của một nam thanh niên dân tộc thái ( M không biết tên, địa chỉ cụ thể ở đâu) một gói ma túy gói bằng nilon màu trắng bên trong có Heroine và ma túy tổng hợp với giá 150.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, M cất giấu ma túy ở lòng bàn tay trái, rồi đi bộ đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Khi M đi bộ đến khu vực Thôn 1, xã TL, huyện TC thì bị tổ công tác Công an huyện TC phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng vật chứng.
Tại Cáo trạng số: 124/CT- VKSTC ngày 04 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC truy tố bị cáo Quàng Văn M về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Quàng Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện TC đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện TC giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Quàng Văn M phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Quàng Văn M từ 24 ( hai mươi bốn) tháng tù đến 30 ( ba mươi) tháng tù.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì đã bóc mở niêm phong vật chứng ban đầu.
Bị cáo Quàng Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn M thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Ngày 16/6/2021 bị cáo Quàng Văn M đã có hành vi cất giữ trái phép 0,37 gam ma túy (0,16 gam Heroine và 0,21 gam Methamphetamine) trong người với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại Thôn 1, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 21 giờ 30 phút ngày 16/6/2021; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 1172/KL ngày 23/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.
Hành vi cất giữ trái phép 0,37 gam ma túy (0,16 gam Heroine và 0,21 gam Methamphetamine) trong người với mục đích để sử dụng của bị cáo Quàng Văn M; bị cáo Quàng Văn M đã bị kết án chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp "tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Từ các căn cứ trên xét thấy hành vi của bị cáo Quàng Văn M đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 11/9/2018 bị cáo Quàng Văn M bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp "tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án ( chưa được xóa án tích).
[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Quàng Văn M khai mua của một người thanh niên dân tộc Thái không biết họ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực bản TA, xã TL, huyện TC, tỉnh Sơn La vào ngày 16/6/2021. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng M. Do đó, buộc bị cáo Quàng Văn M phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.
[6] Vật chứng vụ án: Đối với 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì đã bóc mở niêm phong vật chứng ban đầu là công cụ, phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Quàng Văn M phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Quàng Văn M phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Quàng Văn M 24 (hai mươi bốn ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 16/6/2021).
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn M - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 16/6/2021. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 032580 đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện TC. Bên trong có: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/9/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện TC).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Quàng Văn M phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Quàng Văn M được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2021/HSST
Số hiệu: | 04/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về