Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 27/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo: Lò Văn A; sinh năm: 1994; nơi sinh: huyện PT, tỉnh LC; nơi cư trú: thôn NP, thị trấn PT, huyện PT, tỉnh LC; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: T; giới tính: nam; tôn giáo: không; con ông Lò Văn H và bà Lò Thị N; có vợ là Lò Thị D (sinh năm 1997) và 02 con (con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt hồi 19 giờ 00 phút ngày 25/11/2019; bị tạm giữ từ 21 giờ 00 phút ngày 25/11/2019 đến 21 giờ 00 phút ngày 04/12/2019; từ ngày 04 tháng 12 năm 2019 đến nay bị cáo được tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 25/11/2019 Lò Văn A một mình điều khiển xe máy đi từ nhà tại thôn N, thị trấn Phong Thổ, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu đi xuống bản Hua Cuổi, xã Nậm Cuổi, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để làm thuê. Trên đường đi, A rẽ vào bản Nậm Lúc, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ tìm mua Heroine để sử dụng. Đến bản Nậm Lúc, A vào nhà của Chẻo Lao T (sinh năm: 1964) và hỏi mua của T được 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng. Mua được Heroine, A lấy một phần sử dụng ngay tại nhà T, phần Heroine còn lại A gói lại như cũ bằng mảnh nilon màu xanh, rồi xin T 01 mảnh nilon màu hồng, sau đó A xé mảnh nilon màu hồng ra thành 02 mảnh rồi gói ra bên ngoài gói Heroine. A cất giấu gói Heroine vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy đi đến xã Nậm Cuổi. Khi đi đến bản Hua Cuổi, xã Nậm Cuổi, A vào lán nương của gia đình Vì Văn N (sinh năm 1974) ăn cơm và nghỉ tại lán. Vào hồi 19 giờ 00 phút cùng ngày, sau khi ăn cơm xong, A đang ngồi chơi trên giường thì Tổ công tác Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu (Công an huyện Sìn Hồ) làm nhiệm vụ trên địa bàn đến tiến hành kiểm tra, A chạy ra khỏi lán để ném gói Heroine đi. Khi A lấy gói Heroine trong túi quần bên phải ra cầm trên tay phải, chưa kịp ném đi thì bị Công an huyện Sìn Hồ bắt quả tang.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng và trích mẫu giám định hồi 18 giờ 35 phút ngày 26/11/2019 và bản Kết luận giám định tư pháp số 27, ngày 26/11/2019 của người giám định tư pháp theo vụ việc là ông Trần Văn Minh thể hiện: gói chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn A có khối lượng là 0,11 gam (đã loại bỏ bao bì bên ngoài). Lấy toàn bộ 0,11 gam chất bột màu trắng làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số: 499/GĐ-KTHS ngày 28 tháng 11 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn A gửi đến giám định là ma túy; loại: Heroine (không hoàn lại đối tượng giám định).

Tại Bản cáo trạng số: 08/CT-VKS-SH ngày 19 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị can Lò Văn A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố, không oan, không sai.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử lý vật chứng: đối với 02 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh nilon màu xanh là vật chứng trong vụ án bị cáo đã sử dụng để gói Heroine, hiện nay 3 mảnh nilon này không có giá trị sử dụng, đề nghị tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các tài liệu, chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự thủ tục tố tụng hình sự đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Vào hồi 19 giờ 00 phút ngày 25/11/2019, tại lán nương của gia đình Vì Văn N (sinh năm: 1974), tại bản Hua Cuổi, xã Nậm Cuổi, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, bị cáo Lò Văn A đã có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,11 gam (đã bỏ bao bì bên ngoài) với mục đích để bản thân sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Do vậy, bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Nên những chứng cứ buộc tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật.

Hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Ma túy đang là hiểm họa của toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm lan truyền bệnh tật, các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Vì không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, ham chơi, xa vào tệ nạn xã hội, nghiện chất ma túy mà đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật; đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc đảm nhiệm công việc cần phải cấm; nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,11 gam Heroine là vật chứng trong vụ án đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu gửi đi giám định chất ma túy. Sau khi giám định và có kết luận, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật, nên không đề cập xử lý.

Đối với 03 mảnh nilon (01 mảnh màu xanh, 02 mảnh màu hồng) đã được bị cáo sử dụng để gói Heroine. Hiện nay 03 mảnh nilon này không có giá trị, nên bị tịch thu và tiêu hủy, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[10] Về trách nhiệm của người có liên quan: Theo lời khai của bị cáo thì 0,11 gam Heroine bị cáo tàng trữ là do mua của một người đàn ông tên là T, khoảng 40 tuổi, nhà ở bản Nậm Lúc, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã tiến hành xác minh. Kết quả xác minh thể hiện: người đàn ông tên là T có tên đầy đủ là Chẻo Lao T, sinh năm 1964, trú tại: bản Nậm Lúc 1, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; Tả không thừa nhận được bán Heroine cho bị cáo. Ngoài lời khai duy nhất của bị cáo, không có tài liệu, chứng cứ khác chứng minh T là người đã bán Heroine cho bị cáo vào ngày 25/11/2019. Nên không có căn cứ để xử lý đối với Chẻo Lao T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, 1. Tuyên bố: bị cáo Lò Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Xử phạt bị cáo Lò Văn A 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, được trừ 09 ngày bị cáo bị tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 01 (một) năm 02 (hai) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu hủy 01 mảnh màu xanh và 02 mảnh màu hồng là vật chứng trong vụ án.

4. Án phí sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 27 tháng 4 năm 2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 04/2020/HS-ST

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về