Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THIỆU HÓA, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 03/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 37/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:

Lê Văn S, sinh ngày 07/4/1991, tại: Xã Th D, huyện T, tỉnh H; Nơi cư trú: Thôn A 1, xã Th D, huyện T, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn H, sinh năm 1952 và bà Hoàng Thị Q, sinh năm 1950; Vợ: Chưa; Con: Chưa.

Tiền án: không.

Tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/9/2023 đến 22/9/2023 chuyển tạm giam đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Lê Văn T, sinh năm 1982; (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn A 1, xã Th D, huyện T, tỉnh H;

2. Ông Lê Văn H, sinh năm 1952; (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn A 1, xã Th D, huyện T, tỉnh H;

- Người chứng kiến:

1. Ông Lê Văn K, sinh năm 1962; (Vắng mặt) Địa chỉ; Thôn A 3, xã Th D, huyện T, tỉnh H.

2. Ông Lê Ngọc Ph, sinh năm 1962; (Vắng mặt).

Địa chỉ; Thôn A 3, xã Th D, huyện T, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 16/9/2023, Lê Văn S điều khiển xe mô tô BKS 36B2-xxxxx chở Lê Văn T, sinh năm 1982, ở thôn A 1, xã Th D đi đến thôn Đông Mĩ, xã Th D để bắt xe khách Nguyên Trang đi Hà Nội. S đưa cho T 500.000 đồng nhờ T mua ma tuý. T cầm tiền cất vào túi quần sau rồi lên xe ngồi, khi xe bắt đầu di chuyển S đuổi theo xe khách đưa thêm cho T 100.000đ để hỗ trợ thêm cho T đi xe ra Hà Nội. T nói để ma tuý trong Máy cắt gửi về. Khoảng 21 giờ, S ra cây xăng ở thôn Đông Mỹ, xã Th D để lấy đồ T gửi, lấy được đồ T mang về nhà anh trai là Lê Duy Q cắt lớp ni lông màu trắng bọc bên ngoài lấy gói ma tuý ở kẽ của máy cắt, S sử dụng 01 ít bằng hình thức hít, còn lại bỏ vào bao thuốc lá bỏ trong người. Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 17/9/2023 S cất dấu ma tuý trong người, điều khiển xe mô tô tô BKS 36B2-xxxxx đi đến đường Kênh Nam, thuộc thôn A 1, xã Th D thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Số tiền 600.000đ đưa cho T là do lao động mà có (BL87-103).

Qua đấu tranh và làm việc với Lê Văn T, T thừa nhận, ban đầu S nhờ mua ma tuý, T đã nhận lời và cầm của S 500.000đ cất vào túi quần sau rồi lên xe ngồi, sau đó nghĩ lại hành vi mua hộ ma tuý là sai trái nên khi S đuổi theo xe khách đưa thêm cho T 100.000đ, T đã trả lại cho S 500.000đ và chỉ nhận 100.000đ S cho T. Trên đường đi xe khách ra Hà Nội, S gọi điện mượn T chiếc máy cắt nên ra đến Bến xe Giáp Bát, T xin giấy, Băng dính của một người không quen biết đang đóng hàng ở Bến xe rồi đóng gói, viết tên và số điện thoại gửi xe Nguyên Trang về cho S. Qua đối chất với S, T không thừa nhận hành vi mua hộ ma tuý cho S. Kết quả Tex cho thấy T dương tính với ma tuý, loại Heroin. Công an huyện T đã ban hành Quyết định xử phạt hành chính đối với T. Nguồn gốc ma tuý T sử dụng T khai báo là mua của một người không biết tên, tuổi, địa chỉ ở chợ Cóc gần chỗ làm thuê ở tỉnh Thái Nguyên (BL 30; 33 – 40; 41-42).

Quá trình bắt người phạm tội quả tang đã phát hiện và thu giữ gồm:

+ Thu giữ 01 gói gấy nhỏ màu trắng chứa lớp giấy bạc bên trong chứa chất rắn màu trắng dạng cục nghi là heroin, niêm phong ký hiệu M.

+ Thu giữ của Lê Văn S 01 điện thoại Apple màu đen, loại Iphone 6 Plus, số IMEI 354451060301659, lắp số thuê bao 0879.860.xxx.

+ 01 xe mô tô HONDA, loại Wave RSX, số khung CY687581, số máy 52E5145097, BKS 36 B2 – xxxxx.

Cùng ngày khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Văn S phát hiện thu giữ:

+ 01 căn cước công dân mang tên Lê Văn S;

+ 01 điện thoại nhãn hiệu ITEL, loại IT9010, không lắp sim, số IMEI 1: 359786951243725; IMEI 2: 359786951243733 Quá trình điều tra ông Lê Văn H (là bố của S) tự nguyện giao nộp: 01 máy cắt cầm tay và một số đoạn băng dính trắng và mảnh giấy ghi tên “Gửi em S, số điện thoại 0879.860.xxx” do S để tại nhà anh trai là Lê Văn Q, anh Q đi làm ăn xa giao nhà cho ông H trông coi.

Tại bản kết luận giám định số 33251/KL-KTHS ngày 20/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H, kết luận: Chất rắn màu trắng dạng cục vụn của phong bì niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,156g (không phảy một năm sáu gam), loại Heroin (BL19).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Lê Văn S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu chứng cứ của vụ án.

Tại bản cáo trạng số 04/CT-VKS-TH ngày 11/12/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T đã truy tố Lê Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện T giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đề nghị xử phạt Lê Văn S từ 12 đến 15 tháng tù;

Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy Toàn bộ bao gói mở niên phong và 0,138 gam chất rắn màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M. tất cả đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Thiều Trần H và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H; Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn băng dính trắng và mảnh giấy ghi tên “Gửi em S, số điện thoại 0879.860.xxx”.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn S: 01 điện thoại Apple màu đen, loại Iphone 6 Plus, số IMEI 354451060301659, lắp số thuê bao 0879.860.xxx và 01 căn cước công dân mang tên Lê Văn S;

Trả lại cho ông Lê Văn H 01 xe mô tô HONDA, loại Wave RSX, số khung CY687581, số máy 52E5145097, BKS 36 B2 – xxxxx và 01 điện thoại nhãn hiệu ITEL, loại IT9010, không lắp sin, số IMEI 1: 359786951243725; IMEI 2: 359786951243733.

Trả lại cho anh Lê Văn T 01 máy cắt cầm tay màu cam đỏ, đen, có dây cắm nối liền, đã qua sử dụng.

Về án phí: Bị cáo Lê Văn S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố, không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát về tội danh hình phạt và các vấn đề khác. Khi nói lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi, chứng cứ xác định tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ được, bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 25 phút ngày 17/9/2023 tại khu vực thôn A 3, xã Th D, huyện T, tỉnh H, Lê Văn S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,156g (Không phẩy một năm sáu gam) loại: Heroine nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh H truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn xâm hại trực tiếp đến sức khỏe, giống nòi, nhân cách, đạo đức, lối sống con người, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời cùng thể hiện tính răn đe và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, cải tạo tốt trở về với gia đình, xã hội để trở thành một công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, bị cáo là lao động tự do không có thu nhập ổn định, phạm tội không có tính vụ lợi; Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Toàn bộ chất ma túy còn lại là mẫu vật sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 điện thoại Apple màu đen, loại Iphone 6 Plus, số IMEI 354451060301659, lắp số thuê bao 0879.860.xxx và 01 căn cước công dân mang tên Lê Văn S.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận chiếc điện thoại Apple màu đen Iphone 6 và điện thoại nhãn hiệu ITEL lại IT9010 là điện thoại của bị cáo, bị cáo không dùng điện thoại vào mục đích phạm tội. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Đối với 01 xe mô tô HONDA, loại Wave RSX, số khung CY687581, số máy 52E5145097, BKS 36 B2 – xxxxx. Đây là xe của con trai ông H, giao cho ông H quản lý đưa đón cháu đi học, việc bị cáo S lấy xe đi ông H không biết. Vì vậy HĐXX xét thấy nên trả lại chiếc xe cho ông H là phù hợp.

Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu ITEL, loại IT9010, không lắp sin, số IMEI 1: 359786951243725; IMEI 2: 359786951243733 thu giữ khi khám xét khẩn cấp tại nhà S. Tại phiên tòa bị cáo S và ông Lê Văn H đều thừa nhận đây là điện thoại của ông H, không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại cho ông H là phù hợp.

Đối với chiếc máy cắt cầm tay, quá trình điều tra bị cáo khai nhận T để ma túy trong máy cắt gửi về cho bị cáo. Tuy nhiên qua việc lấy lời khai của T và tại biên bản đối chất T không thừa nhận việc để ma túy trong máy cắt. Khi kiểm tra máy cắt cũng không thu giữ được ma túy trong máy. Máy cắt là tài sản của T, nên cần trả lại cho anh T là phù hợp.

[7]. Đối với nguồn gốc số ma túy S khai nhận là nhờ T mua và gửi về. Tuy nhiên T không thừa nhận, sau khi đối chất vẫn không làm rõ được nguồn gốc số ma túy S tàng trữ, nên không có cơ sở để xử lý hành vi của Lê Văn T.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Lê Văn S 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tạm giữ (Ngày 17/9/2023).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy Toàn bộ bao gói mở niên phong và 0,138 gam chất rắn màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M. tất cả đựng trong một phong bì niêm phong mẫu vật do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Thiều Trần H và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H; Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn băng dính trắng và mảnh giấy ghi tên “Gửi em S, số điện thoại 0879.860.xxx”.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại Apple màu đen, loại Iphone 6 Plus, số IMEI 354451060301659, lắp số thuê bao 0879.860.xxx và 01 căn cước công dân mang tên Lê Văn S.

Trả lại cho ông Lê Văn H 01 điện thoại nhãn hiệu ITEL, loại IT9010, không lắp sin, số IMEI 1: 359786951243725; IMEI 2: 359786951243733 và 01 xe mô tô HONDA, loại Wave RSX, số khung CY687581, số máy 52E5145097, BKS 36 B2 – xxxxx.

Trả lại cho anh Lê Văn T 01 máy cắt cầm tay màu cam đỏ đen có dây cắm nối liền, máy cũ.

(Đặc điểm của các vật chứng này theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T ngày 11/12/2023).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Bị cáo Lê Văn S phải chịu 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2024/HS-ST

Số hiệu:03/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thiệu Hoá - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về