Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 06/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 142/2022/TLST- HS ngày 12 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn N, tên gọi khác: Không, sinh ngày 24/6/1993; tại tỉnh Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Số 447 N, Tổ 5, phường L, thành phố B; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; nghề nghiệp: Không; con ông Phạm Uy Q, sinh năm 1967 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Lệ T, sinh năm 1968; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 11/01/2017 Phạm Văn N bị Công an phường L, Tp. B ra Quyết định xử phạt hành chính theo Quyết định số 262 /QĐ-XPVPHC với số tiền 2.250.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Đã thực hiện xong quyết định, đã được xóa.

+ Ngày 20/3/2019 Phạm Văn N bị Chủ tịch UBND phường L ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn trong thời gian 03 tháng kể từ ngày 20/3/2019 đến 20/6/2019, theo quyết định số 72/QĐ-UBND, đã chấp hành xong, đã được xóa.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. B từ ngày 30/9/2022 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/9/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố B phối hợp với Công an phường L, thành phố B tiến hành kiểm tra đối với Phạm Văn N do nghi vấn đang thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại khu vực đường trước số nhà 337 đường N, tổ 4, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Qua kiểm tra Công an Tp. B phát hiện trong túi quần kaki ngắn màu xanh, túi phía trước bên trái mà Phạm Văn N đang mặc có 01 gói nylon với rãnh khép kín, trên miệng có vạch kẻ ngang màu đỏ, kích thước 06cm x 04cm chứa chất tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy và 01 gói nylon hàn kín, kích thước 02cm x 04cm chứa chất tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma túy. Theo N khai nhận đây là 02 gói ma túy của N tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Do đó lực lượng công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ toàn bộ tang vật nói trên.

Quá trình điều tra xác định được như sau: Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 30/9/2022, N mua 02 gói nylon bên trong có chứa ma túy đá từ 01 người đàn ông tên Kiên (chưa xác định được nhân thân lai lịch) tại khu vực chợ cũ, Tp. B với số tiền 800.000 đồng. Sau khi mua, N cất giấu 02 gói nylon có chứa ma túy nói trên trong túi quần kaki màu xanh phía trước bên trái mà N đang mặc trên người mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị công an phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật nói trên.

Tại kết luận giám định số 1427/ KL-KTHS ngày 04/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lâm Đồng xác định: mẫu tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,3377g, loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị Định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 151/CT-VKSBL, ngày 07 tháng 12 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Phạm Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Văn N từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, cơ quan Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng đã thu giữ:

Vật chứng, chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy, gồm:

02 phong bì niêm phong số 1427/2022-PC09 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng sau khi giám định.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, là sai trái, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm: Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn N đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; nội dung Kết luận giám định; biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định và đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo là người nghiện ma túy. Vào ngày 30/9/2022, tại khu vực đường trước số nhà 337 N, tổ 4, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng, cơ quan Công an thành phố B phối hợp với Công an phường L, thành phố B kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm ội quả tang đối với Phạm Văn N đã tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 1,3377 gam ở bên trong túi quần đang mặc trên người, loại Methamphetamine, mục đích sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất và mức độ của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động tàng trữ chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý có khối lượng 1,3377 gam bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì thái độ xem thường pháp luật, cũng như nhằm mục đích thoả mãn cho nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Bị cáo thực hiện tội phạm nghiêm trọng, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Phạt bổ sung: Miễn phạt bổ sung.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau:

Vật chứng, chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy, gồm: 02 phong bì niêm phong số 1427/2022-PC09 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng sau khi giám định.

[10] Các vấn đề khác:

Trong vụ án có đối tượng tên Kiên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) là người đã bán trái phép chất ma túy cho bị cáo N. Tuy nhiên, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng trên nên cơ quan Công an Tp. B tách ra tiếp tục điều tra khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[11] Xét ý kiến trình bày luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đã được kiểm tra tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[12] Về chi phí tố tụng: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Văn N 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/9/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ gồm: 02 phong bì niêm phong số 1427/2022-PC09. Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/12/2022 giữa cơ quan Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về ..., án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Văn N phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về