Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2022/TLST- HS ngày 26 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2022 và Thông báo về việc thay đổi lịch xét xử số 04/TB-TA ngày 01 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Quốc T, sinh ngày 03/4/1992 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Cụm dân cư Q, phường Đ, quận D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quốc P (đã chết) và bà Hoàng Thị L1; có vợ là Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1993 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 22/11/2021 đến ngày 25/11/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Đỗ Văn C1 và anh Nguyễn Việt C2, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 22/11/2021, tại khu vực hầm dân sinh chân cầu Tân Vũ thuộc thôn Ninh Tiếp, xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải, tổ công tác Đồn Biên phòng Cát Hải bắt quả tang Phạm Quốc T đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của T 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy, mục đích để sử dụng. Đồn Biên phòng Cát Hải đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng để tiến hành giám định và thu giữ của T 01 điện thoại Nokia-105 màu xanh đen.

Kết luận giám định số 621/KLGĐ-MT ngày 22/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,60 gam, là loại Methamphetamine.

Tại Đồn Biên phòng Cát Hải, Công an huyện Cát Hải và tại phiên tòa, Phạm Quốc T khai nhận: Ngày 21/11/2021, một người bạn tên Đ ( T không rõ lai lịch, địa chỉ) gọi điện rủ T mua ma túy đá để mang ra Cát Hải cùng sử dụng. T đồng ý và một mình đi đến khu vực đường tàu quận Lê Chân, Hải Phòng mua của một người phụ nữ không quen biết 2.000.000 đồng được 01 túi nilon ma túy đá, mang về nhà cất giấu. Sáng ngày 22/11/2021, T nhờ một người bạn tên L2 ( T không biết rõ lai lịch, địa chỉ) dùng xe máy chở ra Cát Hải. T mang theo số ma túy đã mua, cất trong 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, để trong túi áo khoác, mục đích ra Cát Hải cùng sử dụng với Đ. Khi T đi đến khu vực chân cầu Tân Vũ thuộc thôn Ninh Tiếp, xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng Cát Hải phát hiện, bắt quả tang thu giữ số ma túy trên.

Bản Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 26/012022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải truy tố bị cáo Phạm Quốc T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận về hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Do đó, Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Bị cáo thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Quốc T từ 42 đến 48 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

- Về xử lý vật chứng vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia-105.

- Về các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho T và người nam giới tên Đ rủ T cùng sử dụng ma túy và người đàn ông tên L2 chở T ra Cát Hải do không xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải không có cơ sở để xử lý.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát. Bị cáo biết hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật, rất hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cát Hải, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Quốc T đều khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã làm rõ: Bị cáo Phạm Quốc T là người nghiện ma túy, nên ngày 22/11/2021, tại thôn Ninh Tiếp, xã Nghĩa Lộ, huyện Cát Hải, Phạm Quốc T có hành vi cất giữ trái phép 4,60 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, quy định:“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) Methamphetamine,.. có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Như vậy, hành vi cất giữ trái phép 4,60 gam ma túy nêu trên của bị cáo Phạm Quốc T có đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết định khung hình phạt:

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây thiệt hại lớn về kinh tế, gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái giống nòi, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ là 4,60 gam Methamphetamine, khối lượng này gần đến mức 05 gam là chuyển khoản 2 với mức hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Do đó, trong trường hợp này cần phải xử phạt bị cáo với mức tối đa của luật định.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội luôn thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, nên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, quy định: "5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có việc làm, không có thu nhập và không có tài sản riêng. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng vụ án:

[8] Đã thu giữ được của Phạm Quốc T: 01 (một) phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 điện thoại Nokia- 105 là công cụ dùng vào việc phạm tội. Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy số ma túy, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại.

- Về các vấn đề khác:

[9] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho T và người nam giới tên Đ rủ T cùng sử dụng ma túy và người đàn ông tên L2 chở T ra Cát Hải do không xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải không có cơ sở để xử lý, là có căn cứ.

[10] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự.

[11] Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Quốc T 48 (bốn mươi tám) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 22/11/2021.

Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia-105, màu xanh, đen, số Imei 355816099204398 (đã qua sử dụng) các vật chứng trên đều thu giữ được của Phạm Quốc T. Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/01/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Quốc T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về