Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 01 năm 2018 tại trụ sở, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 741/2018/HSST ngày 05 tháng 12 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6099/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 12 năm 2018, đối với bị cáo:

Phạm Thế H, Tên gọi khác: Bắc; giới tính: Nam; sinh ngày 08 tháng 11 năm 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 49/7A, ấp T, xã N, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; trình độ văn hóa: 5/12; nghề nghiệp: làm thuê; con ông: Phạm Văn H và bà Phạm Thị Á ; có vợ: Đinh Kim V và 01 con (sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 09-4-2018 – có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo:

- Bà Nguyễn Ngọc T - Luật sư, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Phạm Thế H – có mặt;

Ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Huỳnh Kim C, sinh năm 1981;

địa chỉ: 3/125A ấp N, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 09-4-2017, tại trước nhà số 3/6 quốc lộ 22, khu phố 2, thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, tổ tuần 1 tra Đội Cảnh sát giao thông - Công an huyện Hóc Môn phát hiện bắt quả tang Phạm Thế H đang có hành vi cất giữ chất ma túy. Thu giữ 01 gói nilon bên trong chứa tinh thể không màu đang treo ở chỗ con ốc gắn gương chiếu hậu bên phải xe gắn máy của H đang điều khiển. Qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 794,12g, loại Methamphetamine (MA) (theo Kết luận giám định số 718/KLGĐ-H ngày 16 tháng 4 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Tiến hành khám xét chỗ ở của Phạm Thế H, thu giữ 01 gói ma túy. Qua giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,1289g, loại Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 718/KLGĐ-H ngày 16 tháng 4 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh); 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 05 nỏ thủy tinh và một số vật dụng.

Kết quả điều tra xác định: Phạm Thế H bị nghiện ma túy, số ma túy bị Công an phát hiện thu giữ khi bắt quả tang H treo trên xe là của đối tượng tên T (không rõ lai lịch) thuê H đem giao cho tên K (không rõ lai lịch). H đã vận chuyển đi giao ma túy cho T được 02 lần và bị bắt ngày 09-4-2018. Riêng số ma túy thu giữ tại nơi ở của H là do H mua của T vào ngày 08-4-2018 với giá 500.000 đồng để dành sử dụng dần.

Tại Bản cáo trạng số 347/CT-VKSTC-P1 ngày 27-8-2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Phạm Thế H về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 250 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Phạm Thế H đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Trong phần tranh luận bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong phần tranh luận đã phân tích tính chất, mức độ, động cơ phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250 và điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 18 đến 19 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và từ 01 đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, không phạt bổ sung vì bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Đối với vật chứng đề nghị xử lý theo qui định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Thế H tranh luận: thống nhất tội danh và khung hình phạt cáo trạng truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ đó là nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; có hoàn cảnh khó khăn và có 01 con nhỏ, để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử mức án thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát và không áp dụng hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

2 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Qua xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thế H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với tài liệu chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ của vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do nghiện ma túy để có tiền, bị cáo Phạm Thế H đã có hành vi vận chuyển trái phép chất số ma túy có khối lượng 794,12g, loại Methamphetamine (MA) do đối tượng tên T (không rõ lai lịch) thuê H đem giao cho đối tượng tên K (không rõ lai lịch) thì bị tổ tuần tra Đội Cảnh sát giao thông - Công an huyện Hóc Môn phát hiện bắt quả tang vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 09-4-2017, tại trước nhà số 3/6 quốc lộ T, khu phố I, thị trấn M, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, bị cáo còn cất giữ số ma túy có khối lượng 0,1289g, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý kết luận bị cáo Phạm Thế H đã phạm vào tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3]Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cao cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an của xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc, nhưng vì thu lợi nhuận cao và thỏa mãn nhu cầu nghiện ma túy của bản thân, đã bất chấp hậu quả xảy ra, cố ý phạm tội. Trong vụ án này bị cáo đã phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy là loại Methamphetamine có khối lượng từ 100 gam trở lên, đây là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015 và tàng trữ trái phép chất ma túy là loại Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: xét thấy tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; có hoàn cảnh khó khăn và có 01 người con dưới 03 tuổi.

3 Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]Từ những phân tích đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ, động cơ phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly khỏi đời sống xã hội thời gian dài, nhằm cải tạo giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Trên đây cũng là nhận định của Hội đồng xét xử đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa. [6]Về xử lý vật chứng đang tạm giữ:

- Xét 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng là phương tiện do bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước;

- Đối với 01 xe gắn máy biển số 53Y7-6569, qua xác minh chủ sở hữu là bà Huỳnh Kim C, bị cáo H mượn xe sử dụng, bà C không biết H dùng vào việc phạm tội nên trả lại cho bà C;

- Tịch thu tiêu hủy số tang vật còn lại vì không còn giá trị sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2017.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố Phạm Thế H phạm tội “ Vận chuyển trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250 và điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thế H 20 (hai mươi) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hình phạt chung cho hai tội là 21(hai mươi mốt) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09-4-2018.

- Áp dụng điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015,

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng, model A1687 FCCIDBCGE2946, IC: 579C-E2946A;

+ Trả 01 (một) xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda, loại xe: 02 bánh, số loại: Dream, biển số: 53Y7-6569, SK: FS-100-08003062 (số mờ), SM: 1P50FMG-10116360 cho bà Huỳnh Kim C;

+ Tịch thu tiêu hủy số tang tài vật gồm: 02 (hai) bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 05 (năm) nỏ thủy tinh, 01 (một) cây kéo; 01(một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 718/18 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh Cường và điều tra viên Phạm Thành Tr, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 01(một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 721/18 có chữ ký của giám định viên Võ Anh T và điều tra viên Phạm Thành Tr, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

( Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 400/18 ngày 06-9-2018 của Cục thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh ).

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo xin xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 03/2019/HS-ST

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về