Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 02/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 02 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2023/TLST - HS ngày 24 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 69/2023/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Hàng A Đ, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1972, tại huyện M, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm X, xã P, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 1/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hàng A G (đã chết) và bà Sùng Y S, sinh năm 1945; bị cáo có vợ là Sùng Y M, sinh năm 1969 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo có sử dụng, nghiện chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ ngày 11/8/2023 chuyển tạm giam ngày 20/8/2023. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 11/8/2023 tổ công tác Công an xã Pà Cò chủ trì phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy Công an huyện Mai Châu đang làm nhiệm vụ tại xóm Xà Lính, xã Pà Cò, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình phát hiện Hàng A Đ, sinh năm 1972, trú tại xóm X, xã P, huyện M, tỉnh Hòa Bình điều khiển xe mô tô BKS: 26K9-64xx đi từ Quốc lộ 6 vào xã Pà Cò có nhiều biểu hiện nghi vấn, tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra, phát hiện trong kẽ ngón chân của bàn chân trái của Đ có 01 gói nion màu đen bên trong chứa 10 viên nén màu hồng nghi là ma túy. Hàng A Đ khai nhận đó là ma túy Đ tàng trữ mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mai Châu Hàng A Đ khai nhận về nguồn gốc số ma túy trên như sau: Trưa ngày 11/8/2023 Hàng A Đ điều khiển xe mô tô BKS 26K9-64xx của mình đi dọc Quốc lộ 6 khu vực giáp ranh giữa xã Pà Cò, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình và xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La thì gặp 01 người đàn ông không quen biết đang đi bộ ven đường. Đ dừng xe lại nói chuyện với người đàn ông đó, quá trình nói chuyện biết người này có bán ma túy nên Đ hỏi mua được 10 viên ma túy với số tiền 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Đ kẹp gói ma túy ở kẽ ngón chân của bàn chân trái rồi điều khiển xe mô tô đi về, khi đi đến xóm Xà Lính, xã Pà Cò thì bị cơ quan công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 364/KL-KTHS ngày 18/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Các viên nén màu hồng thu giữ của Hàng A Đ có tổng khối lượng 0,99 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số: 68/CT-VKSMC ngày 23 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố Hàng A Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Hàng A Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Hàng A Đ từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/8/2023.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:

- Tuyên tịch thu toàn bộ số ma túy thu được, sau khi giám định số còn lại đã hoàn trả, để tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại WAVE biển kiểm soát: 26K9-64xx, màu đen-đỏ, xe cũ đã qua sử dụng, bị cáo mua lại của Nguyễn Văn L. Tuy bị cáo có khai dùng xe đi mua chất ma túy nhưng hành vi của bị cáo không cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy, mà cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy, nên xác định không dùng xe mô tô vào việc phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, hơn nữa tại phiên tòa bị cáo khai xe mô tô này là của cả gia đình, là phương tiện đi lại của cả nhà nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

Về vấn đề khác: Đối với người đã bán ma túy cho Hàng A Đ, quá trình điều tra không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, không biết là ai nên không có căn cứ đề nghị xử lý.

Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo đã nhận được các văn bản tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo đã được phổ biến quyền và nghĩa vụ, không bị ép cung, mớm cung, bị cáo đồng ý với nội dung Cáo trạng và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, bị cáo không thuê Luật sư hoặc nhờ trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho mình, bị cáo do nghiện ma túy, tàng trữ để sử dụng, ngoài ra không có mục đích gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Những chứng cứ xác định có tội: Bị cáo bị bắt, bị lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 11/8/2023 Hàng A Đ có hành vi tàng trữ 0,99 gam ma tuý, loại Methamphetamine trong kẽ ngón chân trái để sử dụng phục vụ nhu cầu bản thân, ngoài ra không còn mục đích nào khác. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Hàng A Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Chứng cứ xác định không có tội: Không có.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp phòng, chống tiến tới loại trừ tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó. Bản thân bị cáo nghiện chất ma túy nhưng không tự giác cai nghiện, trái lại còn tàng trữ để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Không có; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, tiền án, tiền sự, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo nêu trên, xét cần xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc, nhưng phù hợp đối với bị cáo, nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[6] Về tội danh, điều luật áp dụng, hình phạt, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, tạm giam sau khi tuyên án và về các vấn đề khác mà đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đã có ý kiến đề nghị nêu trên. Xét thấy có căn cứ phù hợp quy định pháp luật cần xử lý, giải quyết theo hướng đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[8] Về án phí: Bị cáo Hàng A Đ phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Hàng A Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Hàng A Đ 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ 11/8/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Methamphetamine sau khi giám định còn lại đã hoàn trả, được niêm phong trong 01 phong bì.

- Trả lại cho bị cáo Hàng A Đ xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại WAVE, biển kiểm soát: 26K9-64xx, màu đen-đỏ, xe cũ đã qua sử dụng.

(Các vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm cụ thể của các vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 09/THA ngày 01/12/2023 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Hàng A Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về