Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 02/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN NAM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 02/2022/HS-ST NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 12 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2021/TLST – HS ngày 25 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST – HS ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc P (tên gọi khác T), sinh năm 1991 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và Chỗ ở hiện nay: thôn Lạc T 3, xã Phước D, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Đinh Thị Ph, sinh năm 1963; Vợ Phùng Thị L, sinh năm 1998 và 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 15/6/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 18/6/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam xử phạt 23 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc Nguyễn Ngọc P chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 năm 11 tháng. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/7/2014. Đã xóa án tích. Ngày 26/12/2014, bị Công an huyện Thuận Nam xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 20/4/2020, bị Trưởng Công an xã Cà Ná xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Đã nộp phạt. Bị cáo hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Thuận Nam từ ngày 03 – 10 – 2021 (có mặt).

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

1.Bà Đinh Thị Ph, sinh năm 1963 (có mặt).

Trú tại: thôn Lạc T 3, xã Phước D, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.

2. Ông Trần Hoàng Tr, sinh năm 1977 (có đơn xét xử vắng mặt).

Trú tại: thôn Lạc S 2, xã Cà N, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 02 tháng 10 năm 2021, Nguyễn Ngọc P một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 85E1 – 016.46 đến thị tiệm tạp hóa tại ngã ba Phú Q, trấn Phước D, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận để mua thuốc lá. Tại đây, P gặp bạn tên T (chưa rõ nhân thân, lai lịch), biết T có ma túy đá nên P hỏi xin để sử dụng, T đồng ý, nói P đứng đợi. Khoảng 05 phút sau, T quay lại đưa cho P 01 củ sạc có gắn dây sạc điện thoại hiệu OPPO, bên trong có ma túy đá, P cất vào túi quần jean phía trước bên phải. Sau đó, P điều khiển xe về nhà ở thôn Lạc T 3, xã Phước D. Lúc 01 giờ 15 phút ngày 03 tháng 10 năm 2021, P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 85E1 – 016.46 đến đoạn đường bê tông thuộc thôn Lạc Ng 1, xã Cà N, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận thì bị Tổ tuần tra Công an xã Cà N dừng xe, kiểm tra, phát bên trong củ sạc có 01 ống nhựa kích thước (4,5 x 0,8) cm, 01 ống nhựa kích thước (03 x 0,8) cm và 01 túi nilon kích thước (2,5 x 4,5) cm, bên trong ống nhựa và túi nilon đều chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá) nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ đồ vật, tài liệu có liên quan, chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Nam giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 04/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra trưng cầu giám định chất nghi ma túy thu được khi bắt quả tang Nguyễn Ngọc P. Kết luận giám định số 175/KLGĐ, ngày 07/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận kết luận: “Chất tinh thể màu trắng gửi đến giám định (ký hiệu M1) là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là: 0,2083g. Chất tinh thể màu trắng gửi đến giám định (ký hiệu M2) là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định ký hiệu M2 là: 0,1310g. Chất tinh thể màu trắng gửi đến giám định (ký hiệu M3) là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu gửi giám định ký hiệu M3 là: 1,9264g”.

Đồ vật tạm giữ, xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Nam tạm giữ, trả lại cho Nguyễn Ngọc P 01 ví da màu đen; 01 Căn cước công dân số 058091000920 mang tên Nguyễn Ngọc P; số tiền 13.330.000 đồng; 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus, gắn SIM số 0363182144; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A30, gắn SIM số 0856956721. Trả lại cho bà Đinh Thị Ph, sinh năm 1963 trú thôn Lạc T 3, xã Phước D, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ - đen, biển kiểm soát 85E1 – 016.46 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 000136, biển kiểm soát 85E1 – 016.46. Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì dán kín có chữ kỹ niêm phong của Trịnh Đình Q, Lê Ngọc Th, Nguyễn Lê Đức Ng, Nguyễn Văn L, đóng dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định: Chất ma túy, loại Methamphetamine, mẫu M1: khối lượng 0,1194g, mẫu M2: 0,0763g, mẫu M3:

1,6954g, cùng bao gói gửi đến giám định. 01 vỏ củ sạc OPPO màu trắng kích thước (2,2x4,5x5,5) cm; 01 dây sạc điện thoại di động màu trắng, dài 90 cm. 01 cái kéo bằng kim loại màu trắng bạc, dài 9,5 cm, mũi cong, đã cũ, qua sử dụng.

Tại cáo trạng số: 47/CT – VKSTN, ngày 24 – 11 – 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam vẫn bảo lưu quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Ngọc P tại Bản cáo trạng số 47/CT – VKSTN ngày 24 – 11 – 2021. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo P (T) mức án từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình, trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của Điều tra viên trong quá trình điều tra; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về căn cứ buộc tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nên có đủ cơ sở để kết luận: Lúc 01 giờ 15 phút ngày 03 tháng 10 năm 2021, tại đường bê tông thuộc thôn Lạc Ng 1, xã Cà N, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận, Công an xã Cà N bắt quả tang Nguyễn Ngọc P tàng trữ trái phép 2,2657 gam ma túy, loại Methamphetamine, để sử dụng cho bản thân. Hành vi nêu trên của bị cáo đã cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy ". Tội danh và hành phạt của bị cáo được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý, sử dụng chất ma túy của nhà nước, góp phần làm lan truyền tệ nạn nghiện hút ma túy; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng nhân thân bị cáo bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” và “Cướp giật tài sản”. Bị cáo bị Công an huyện Thuận Nam xử phạt về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Điều này chứng tỏ hình phạt của bản án và xử phạt lần trước chưa đủ sức giáo dục, răn đe đối với bị cáo.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là: Thành khẩn khai báo, nuôi con nhỏ và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, trên cơ sở để phục vụ công tác đấu tranh chống, phòng ngừa chung tội phạm và tạo điều kiện cho các bị cáo có cơ hội sữa chữa sai lầm, cần chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là áp dụng hình phạt tù với mức đủ để các bị cáo tỉnh ngộ, sớm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, kết quả xác minh của Cơ quan điều tra và lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có tài sản. Do vậy, cần chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Phi.

[7]. Về vật chứng: Cần tịch thu, tiêu hủy:

- 01 phong bì dán kín có chữ kỹ niêm phong của Trịnh Đình Q, Lê Ngọc Th, Nguyễn Lê Đức Ng, Nguyễn Văn L, đóng dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định: Chất ma túy, loại Methamphetamine, mẫu M1: khối lượng 0,1194g, mẫu M2: 0,0763g, mẫu M3: 1,6954g, cùng bao gói gửi đến giám định;

- 01 vỏ củ sạc OPPO màu trắng kích thước (2,2x4,5x5,5) cm; 01 dây sạc điện thoại di động màu trắng, dài 90 cm;

- 01 cái kéo bằng kim loại màu trắng bạc, dài 9,5 cm, mũi cong, đã cũ, qua sử dụng.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này, Nguyễn Ngọc Ph khai nhận nguồn gốc số ma túy trên là do người tên T cho để sử dụng. Vụ việc xảy ra tại thị trấn Phước D, huyện Ninh Ph không thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra nên Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Nam có Công văn trao đổi thông tin về tội phạm để Công an huyện Ninh Phước biết, xử lý theo thẩm quyền, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc P (tên gọi khác T) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc P (tên gọi khác T) 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 03 tháng 10 năm 2021.

2. Về vật chứng:

Căn cứ: Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì dán kín có chữ kỹ niêm phong của Trịnh Đình Q, Lê Ngọc Th, Nguyễn Lê Đức Ng, Nguyễn Văn L, đóng dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận, bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định: Chất ma túy, loại Methamphetamine, mẫu M1: khối lượng 0,1194g, mẫu M2: 0,0763g, mẫu M3: 1,6954g, cùng bao gói gửi đến giám định; 01 vỏ củ sạc OPPO màu trắng kích thước (2,2x4,5x5,5) cm; 01 dây sạc điện thoại di động màu trắng, dài 90 cm; 01 cái kéo bằng kim loại màu trắng bạc, dài 9,5 cm, mũi cong, đã cũ, qua sử dụng.

Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Nam theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29 – 11 – 2021.

3.Về án phí:

Căn cứ: khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 – 12 – 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc P (tên gọi khác T) phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 02/2022/HS-ST

Số hiệu:02/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Nam - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về