Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 02/2021/HS-ST NGÀY 18/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HS ngày 07/10/2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vì Văn Đ tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1990; Nơi sinh: Huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản L, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Vì Văn S, đã chết và con bà Thàm Thị C, sinh năm 1959; Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/06/2021 đến ngày 19/06/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Đèo Văn T; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1999; Nơi sinh: Huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản L, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Đèo Văn N, sinh năm 1964 và con bà Lò Thị Ư, sinh năm 1964; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/6/2021 đến ngày 19/6/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Vì Văn Đ, Đèo Văn T: Ông Lê Mạnh H - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đèo Văn N, sinh năm 1964;

trú tại: Bản L, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 10/06/2021, Vì Văn Đ đi làm ruộng về qua nhà Đèo Văn T trú cùng bản L, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu thì thấy T đang chuẩn bị đi đâu nên Đ hỏi “Mày đi đâu thế?”, T trả lời “Em đi ra chợ Than Uyên lấy đồ cho bố”. Thấy T nói vậy Đ rủ “Thế đi lên đội chơi tý không ?” (ý muốn rủ T lên bản Noong Thăng, xã Phúc Than mua Heroine để sử dụng), T đồng ý. Sau đó T lấy xe mô tô của gia đình chở Đ đi lên bản Noong Thăng, xã Phúc Than tìm mua Heroine. Đ bản Noong Thăng, T xuống xe trước rồi đi bộ vào trong bản còn Đ điều khiển xe đi tiếp khoảng 10 mét để tìm chỗ dừng xe. Trên đường đi T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, không rõ nhân thân, lai lịch, đang ở ngoài đường nên hỏi “Lấy cho em một trăm nghìn” (ý hỏi mua Heroine với giá 100.000 đồng), rồi đưa một tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng cho người phụ nữ này để mua Heroine, người phụ nữ này đồng ý và cầm tiền. Lúc này Đ đi Đ chỗ T và hỏi “Em lấy chưa”, T trả lời “Em lấy một trăm rồi”, thấy vậy Đ nói tiếp “cho anh ké một trăm với” đồng thời Đ lấy ra một tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng đưa cho T để góp cùng. T cầm tiền rồi đưa tiếp cho người phụ nữ lúc trước để mua Heroine. Người phụ nữ này cầm thêm số tiền 100.000 đồng của Đ rồi nói “Đợi một tý” rồi đi đâu không rõ khoảng 30 phút sau quay lại đưa cho T 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng. Mua được Heroine, T trích lấy một ít trong gói Heroine vừa mua được cho vào bơm kim tiêm có sẵn để pha chế rồi cùng với Đ sử dụng hết, phần Heroine còn lại T gói lại bằng mảnh nilon màu hồng ban đầu rồi đưa cho Đ cầm. Sau đó Đ điều khiển xe mô tô chở T đi về nhà, Đ 12 giờ 10 phút cùng ngày khi Đ và T về Đ bản Mít Thái, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên thì bị lực lượng Công an xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên kiểm tra, phát hiện thu giữ trên tay phải của Vì Văn Đ 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng có khối lượng là 0,38 gam và thu giữ của T 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS: 25T1- 144.53, loại xe WAVE α, màu sơn đen bạc, xe đã qua sử dụng.

Ngày 10/06/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Tân Uyên đã tiến hành thành lập Hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật giám định và niêm phong vật chứng. Tại kết luận giám định số 59/KL-TCGĐ ngày 11/6/2021 của Công an huyện Tân Uyên, kết luận: 01 gói Heroine bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu hồng thu giữ của Vì Văn Đ và Đèo Văn T có khối lượng là 0,38 gam. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên đã trích 0,09gam trong tổng số 0,38gam chất bột khô, màu trắng đục thu giữ của Vì Văn Đ và Đèo Văn T khai nhận là Heroine gửi giám định. Tại kết luận giám định số 495/GĐ-KTHS ngày 17/06/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: “01 (một) mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Bản cáo trạng số 73/CT-VKS-TU ngày 01/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên đã truy tố bị cáo Vì Văn Đ, Đèo Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Bản kết luận điều tra và Bản cáo trạng nêu trên.

Ti phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Vì Văn Đ từ 01 năm 06 tháng Đ 02 năm tù, bị cáo Đèo Văn T từ 01 năm 04 tháng Đ 01 năm 10 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Vì Văn Đ và Đèo Văn T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên.

Người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt vì các bị cáo tàng trữ số lượng ma túy ít, hậu quả đã được ngăn chặn kịp thời, đều là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp, chưa có tiền án, tiền sự và bị cáo T có bố đẻ tham gia kháng chiến.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS: 25T1-144.53, loại xe WAVE α, màu sơn đen bạc, số khung: 3911KY121753, số máy: JA39E0978147 vì nguồn gốc chiếc xe là do ông mua, nhưng khi đăng ký thì mang tên con trai là bị cáo Đèo Văn T. Khi bị cáo T dùng chiếc xe trên để làm phương tiện phạm tội ông không biết và ông không yêu cầu các bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường gì liên quan đến chiếc xe trên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Đ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để về làm lại cuộc đời; bị cáo T xin mức án nhẹ nhất để sớm hòa nhập với xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Uyên, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, các bị cáo và người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Vì Văn Đ và bị cáo Đèo Văn T tại phiên tòa là phù hợp với nội dung vụ án, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định:

Hi 12 giờ 10 phút, ngày 10/06/2021, tại bản Mít Thái, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu, các bị cáo Vì Văn Đ và Đèo Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu hồng có khối lượng 0,38 gam, mục đích để sử dụng thì bị Công an xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, quan điểm về tội danh và đề nghị mức hình phạt, án phí, vật chứng liên quan đối với các bị cáo của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Khi thực hiện hành vi các bị cáo đều là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do bản thân các bị cáo có sử dụng ma túy nên vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm Đ chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn.

[3] Về nhân thân và các T tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự; trình độ học vấn thấp 9/12 và là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Về T tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo đều là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần còn hạn chế; bị cáo Đèo Văn T có bố đẻ được Ban liên lạc Cựu chiến binh toàn quốc mặt trận Vị Xuyên - Hà Tuyên - Quân khu II tặng Kỷ niệm chương vì đã tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Vị Xuyên - Hà Tuyên và được Ban Chấp hành Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam tặng Kỷ niệm chương Cựu chiến binh Việt Nam. Do vậy các bị cáo được hưởng T tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về T tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Không có.

Xét vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Vì Văn Đ là người rủ rê bị cáo Đèo Văn T rồi cả hai cùng nhau đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo T là người trực tiếp mua Heroine nên vai trò của các bị cáo là như nhau.

Tn cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, T tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò của các bị cáo xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đều trên mức khởi điểm của khung hình phạt để thể răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội. Do vậy, đề nghị của người bào chữa cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng các bị cáo nghề nhiệp làm ruộng, nguồn thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: 0,29 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu hồng. Đây là vật chứng cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS: 25T1-144.53, loại xe WAVE α, màu sơn đen bạc, số khung: 3911KY121753, số máy: JA39E0978147, xe đã qua sử dụng. Xét thấy chiếc xe trên đăng ký mang tên bị cáo Đèo Văn T nhưng là tài sản chung của gia đình và do ông Đèo Văn N mua trực tiếp và đăng ký mang tên bị cáoT. Việc bị cáo T dùng chiếc xe để thực hiện hành vi phạm tội thì ông Đèo Văn N không biết nên Hội đồng xét xử thấy cần trả chiếc xe trên cho ông Đèo Văn N.

[6] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc 0,38 gam Heroine, các bị cáo Vì Văn Đ và Đèo Văn T cùng khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông, không rõ nhân thân, lai lịch ở bản Noong Thăng, xã Phúc Than, huyện Than Uyên. Quá trình điều tra không xác định được người phụ nữ này nên không có căn cứ để xử lý.

Đi với ông Đèo Văn N (bố đẻ bị cáo Đèo Văn T) là người đã mua chiếc xe mô tô mà bị cáo Đèo Văn T điều khiển chở bị cáo Vì Văn Đ đi mua Heroine. Việc bị cáo T sử dụng chiếc xe mô tô đi mua Heroine cùng bị cáo Đ thì ông N không biết nên cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Uyên không đề cập xử lý là đúng quy định.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Vì Văn Đ và bị cáo Đèo Văn T, Công an huyện Tân Uyên đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.

[7] Trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Đèo Văn Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS: 25T1-144.53, loại xe WAVE α, màu sơn đen bạc, số khung: 3911KY121753, số máy: JA39E0978147, xe đã qua sử dụng, xét yêu cầu về việc trả lại xe là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận và không đề nghị các bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường liên quan đến chiếc xe trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự nhưng các bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng có kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với các bị cáo.

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vì Văn Đ và Đèo Văn T đều phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2] Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Vì Văn Đ 18 (Mười tám) tháng tù, trừ 09 (Chín) ngày tạm giữ, còn lại bị cáo phải chấp hành 17 (Mười bảy) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt.

Xử phạt bị cáo Đèo Văn T 17 (Mười bảy) tháng tù, trừ 09 (Chín) ngày tạm giữ, còn lại bị cáo phải chấp hành 16 (Mười sáu) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành hình phạt.

Min hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[3] Về vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 01 bì thư làm bằng phong bì của Công an huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu bên trong đựng 0,29 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu hồng.

Trả lại cho ông Đèo Văn Nguyên, sinh năm 1964, địa chỉ bản Lun 1, xã Tà Mung, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, BKS: 25T1- 144.53, loại xe WAVE α, màu sơn đen bạc, số khung: 3911KY121753, số máy: JA39E0978147, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

(T trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 08 giờ 20 phút ngày 14/10/2021giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tân Uyên).

[4] Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

[5] Quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 02/2021/HS-ST

Số hiệu:02/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về