Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 01/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

80/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST-HS ngày 03/01/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Đức N - sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn UH, xã MT, huyện NS, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn Thị Q; vợ: Ứng Thị P; con: Có hai con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/9/2019 đến ngày 02/10/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam, có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đoàn Đình Q1- sinh năm 1990; trú tại: Thôn 3, xã QĐ, huyện QX, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 10 giờ ngày 23/9/2019, N nhắn tin qua mạng xã hội Facebook cho người bạn N mới quen tên là H (có nick Facebook là “H1”), N không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể và nhờ H mua hộ ma túy. H nhắn tin lại thông báo cho N về việc không biết chỗ mua song H sẽ nhờ bạn mua hộ cho N, nếu mua được ma túy thì bạn của H sẽ chủ động liên hệ qua điện thoại với N. Quá trình nhắn tin trao đổi, N nói với H về việc N không có tiền thì H nhất trí sẽ lấy tiền của N sau. Sau khi nhắn tin trao đổi xong, N xóa hết nội dung tin nhắn qua Facebook với H đi. Đến khoảng hơn 13 giờ cùng ngày, khi N đang ở quán tạp hóa ở khu vực thôn Bồng Lạng, xã Thanh Nghị, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam để mua nước thì nhận được điện thoại của một người nam giới (N không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) sử dụng số thuê bao “0334.122...” liên lạc đến số thuê bao “0976813...” của N và nói “Đi ra cổng làng rẽ vào đường bê tông bên trái”. N biết đây là bạn của H nên một mình điều khiển xe mô tô BKS 29T1 – 1... đi đến đoạn đường bê tông gần cổng làng Bồng Lạng thuộc địa phận thôn Bồng Lạng, xã Thanh Nghị, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tại đây, N gặp một người đàn ông (N không biết tên tuổi địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng) đang đứng đợi, khi thấy N đi đến, người đàn ông này hỏi “Bạn H à”, N trả lời “Ừ” thì anh ta nói “Hàng dưới bao thuốc ấy” và chỉ tay về phía vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng đang để dưới mặt đường bê tông cách chỗ hai người đứng khoảng 02m rồi điều khiển xe mô tô bỏ đi, còn N đi đến chỗ vỏ bao thuốc lá nhặt lên kiểm tra thì phát hiện 01 (một) gói ma túy dạng đá được đựng trong túi ni lông màu trắng hàn kín được kẹp giữa vỏ bao thuốc lá Thăng Long và phần túi ni lon bọc bên ngoài.

Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi cầm vỏ bao thuốc lá Thăng Long có chứa gói ma túy ở lòng bàn tay trái, N điều khiển xe mô tô đi về Công ty thì bị tổ công tác Công an huyện Thanh Liêm phối hợp với Công an xã Thanh Nghị phát hiện nghi vấn, yêu cầu kiểm tra phát hiện bắt quả tang * Tài sản, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:

Thu tại lòng bàn tay trái của Nguyễn Đức N 01 (một) túi ni lông màu trắng hàn kín, tại mép dán phía trên có viền màu xanh, kích thước (2x2)cm bên trong có chứa chất dạng tinh thể màu trắng (nghi là ma túy dạng đá) được để tại vị trí kẹp giữa túi ni lông bọc bên ngoài và vỏ bảo thuốc lá Thăng Long niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01.

Thu tại túi quần phía trước bên trái của Nguyễn Văn N đang mặc 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã cũ.

01 (một) xe mô BKS 29T1 – 1... nhãn hiệu Suzuki đã qua sử dụng.

Ngày 23/9/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức N, song không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã ra Quyết định trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam giám định vật chứng đã thu giữ.

Tại bản kết luận giám định số 168/PC09 - MT ngày 26/9/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,239g (Không phẩy hai trăm ba mươi chín gam), loại Methamphetamine.” Tại Bản cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 18/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Nguyễn Đức N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã nêu không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì. Sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Đức N từ 15 đến 21 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Ngoài ra còn đề xuất về hướng xử lý vật chứng cụ thể: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám đinh và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện nhãn hiệu OPPO.

Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 23/9/2019, tại đoạn đường bê tông thuộc địa phận thôn Bồng Lạng, xã Thanh Nghị, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Đức N đang cất giữ 01 túi ni lon bên trong chứa 0,239g (Không phẩy hai trăm ba mươi chín gam) Methamphetamine ở vị trí kẹp giữa vỏ bao thuốc lá Thăng Long và túi ni lon bọc bên ngoài và cầm ở lòng bàn tay trái, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng công an huyện Thanh Liêm phối hợp cùng Công an xã Thanh Nghị kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Hành vi này nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ kéo theo nhiều tệ nạn xã hội cũng như tội phạm nguy hiểm khác. Do đó Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải ra bản án nghiêm khắc đối với bị cáo.

Trong lượng hình.

Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, nên HĐXX cũng xem xét đến yếu tố này khi lượng hình.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có ông nội là người có công với nước được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân, huy chương kháng chiến, bác ruột bị cáo là Liệt sĩ nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Qua xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân lương thiện và có tác dụng phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định; nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với lượng methamphetamine hoàn lại sau giám định, là vật cấm tàng trữ, nay sẽ căn cứ điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu nhãn hiệu OPPO bên trong lắp sim điện thoại số thuê bao “097681xxxx”, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chiếc điện thoại này thuộc quyền sở hữu của bị cáo, bị cáo đã dùng để liên lạc mua ma tuý nay sẽ căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với 01 (một) xe mô tô BKS 29T1 – 1..., quá trình điều tra xác định N mượn xe mô tô trên của bạn làm cùng công ty với N là anh Đoàn Đình Q1, khi cho mượn xe, anh Q1 không biết việc N sử dụng làm phương tiện để đi mua ma túy. Anh Q1 xác định năm 2015, anh mua chiếc xe mô tô trên của anh Trần Văn H, trú tại phường TXB, quận NTL, thành phố Hà Nội với giá 2.500.000 đồng, khi mua bán hai bên không viết giấy mua bán xe. Trong qua trình điều tra Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm chưa xác định được địa chỉ của người bán xe, chưa xác định được chủ sở hữu . Do vậy Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm tách chiếc xe trên để tiếp tục kiểm tra xác minh, khi đủ căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp.

[5] Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ và người đã bán ma túy cho N: Căn cứ lời khai của N, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Liêm đã tiến hành điều tra xác minh xác định người đứng tên đăng ký số thuê bao “0334.122…” là chị Hoàng Thị Thu H, trú tại thôn ĐS, xã LS, huyện KB, tỉnh Hà Nam, chị H xác định bản thân chị không sử dụng số thuê bao điện thoại trên, chị không đứng tên đăng ký cũng không cho bất kì ai mượn chứng minh thư nhân dân để đăng ký số điện thoại trên. Ngoài lời khai của N, không có tài liệu chứng cứ nào khác để xác định người đã bán ma túy cũng như nguồn gốc số ma túy đã thu giữ của Nguyễn Đức N, do vậy HĐXX không xem xét trong vụ án này.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Các điều 106; 136; 329; 331; 333 của BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức N 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 23/9/2019.

3. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma tuý (Methamphetamine) hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 168/PC09-MT mặt trước phong bì ghi chữ "Mẫu vật hoàn trả QT01" và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long mầu vàng. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO (Chi tiết vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/12/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Liêm).

4. Án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đức N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2020/HS-ST

Số hiệu:01/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về