Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 976/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 976/2023/HS-PT NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh L, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 728/2023/TLPT-HS ngày 26 tháng 9 năm 2023, đối với các bị cáo: Nguyễn Thị Kim A, Hồ Viết D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Các bị cáo Hồ Minh Đ và Nguyễn Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Do có kháng cáo của bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2023/HS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1540/2023/QĐPT-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Hồ Viết D, sinh ngày 01/11/1999, tại tỉnh L.

Nơi cư trú trước khi bị bắt: Tổ E, thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Lái đò; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Chung A1 và bà Đinh Thị T1; Bị cáo sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc Q và có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ Ngày 05/12/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L (có mặt).

2. Hồ Minh Đ (tên gọi khác: K), sinh ngày 15/5/1986, tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ H, Khu phố D, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Tạm trú: số A L, Tổ D, Khu phố D, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Minh B (đã chết) và bà Trần Thị L; Bị cáo sống chung nhu vợ chồng với Phạm Bích H; Con: Không có; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại Bản án sơ thẩm số 22/2018/HSST ngày 26/3/2018 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 18/01/2020, đã chấp hành án xong hình phạt tù.

Nhân thân: Tại Bản án số 141/2006/HSST ngày 28/8/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 01/9/2009, đã chấp hành xong hình phạt tù; Tại Bản án số 101/2012/HSST ngày 30/11/2012 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 20/02/2015, đã chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 05/12/2021, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L (có mặt).

Nhung người tham gia tố tụng khác:

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Viết D: Luật sư Hoàng Thị Minh H1 và Luật sư Nguyễn T2, Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Minh Đ: Luật sư Nguyễn Thanh V, Đoàn Luật sư tỉnh L (có mặt).

Bị cáo không có kháng cáo:

1. Nguyễn Thị Kim A (tên gọi khác: T3), sinh ngày 22/02/1989, tại tỉnh L.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Tổ c, thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị Hồng H2; Bị cáo không có chồng, có 06 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại Bản án số 32/2016/HSST ngày 16/8/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh L xử phạt 14 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tại bản án số 06/2017/HSST ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 18 năm tù giam về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của 02 bản án là 30 năm tù, hiện chưa chấp hành án. Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L.

2. Nguyễn Đình T, sinh ngày 25/5/1976, tại tỉnh N.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn B, xã Đ, huyện L, tỉnh L; Nghề nghiệp: Làm vườn; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình T4 và bà Nguyễn Thị K1 (đã chết); Có vợ là Nguyễn Thị S và 04 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L.

Nhân thân: Tại Bản án số 81/2012/HSST ngày 26/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh L xử phạt 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 21/9/2017, đã chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo khác trong vụ án không có kháng cáo cũng không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biển tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Kim A bị Tòa án nhân dân tỉnh L xử phạt 14 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 32/2016/HSST ngày 16/8/2016 và bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 18 năm tù giam về tội “Cướp tài sản”, tổng hợp hình phạt chung của 02 bản án là 30 năm tù theo bản án số 06/2017/HSST ngày 16/3/2017. Trong thời gian được tạm hoãn chấp hành án vì đang nuôi con nhỏ, do không có việc làm nên Nguyễn Thị Kim A đã mua ma túy của một người tên C không rõ lai lịch ở Đắk Nông để bán lại kiếm lời.

Đến khoảng đầu năm 2021, thông qua các mối quan hệ xã hội, Nguyễn Thị Kim A biết người tên T5 (chỉ biết ở tỉnh Hải Dương) có ma túy để bán với khối lượng lớn. Khoảng cuối tháng 9/2021, Nguyễn Thị Kim A bắt đầu mua ma túy của T5 tất cả 07 lần, tổng cộng số ma túy đã mua là 18 bánh Heroine và 6.412 viên thuốc lắc. Các lần mua bán ma túy, T5 trực tiếp mang đến nhà Nguyễn Thị Kim A giao hoặc chuyển qua các xe khách tuyến Bắc - N, mỗi bánh Heroine T6 bán với giá từ 250.000.000 đồng đến 280.000.000 đồng tùy thời điểm. Sau đó, Nguyễn Thị Kim A bán lại mỗi bánh Heroine với giá từ 300.000.000 đồng đến 350.000.000 đồng. Sau khi bán được ma túy thì Nguyễn Thị Kim A gom tiền lại trả cho T6, tổng cộng khoảng 4.000.000.000 đồng, tiền lời có được do bán ma túy được sử dụng hết vào việc chi tiêu cá nhân.

Nguyễn Thị Kim A đã bán ma túy cho nhiều người, trong đó có Nguyễn Đình T, Phạm Văn T7 và một số người không rõ lai lịch. Để thuận lợi cho hoạt động mua bán ma túy, từ tháng 10/2021 Nguyễn Thị Kim A bắt đầu thuê Hồ Viết D để đi giao ma túy cho những người mua ma túy và được D đồng ý. D đi bán ma túy cho Nguyễn Thị Kim A tổng cộng khoảng 13 lần, mỗi lần bán ma túy thì D được Nguyễn Thị Kim A trả công bằng tiền mặt từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, cụ thể:

Hành vi bán ma túy cho Phạm Văn T7:

Phạm Văn T7 quen biết với Nguyễn Thị Kim A vào khoảng tháng 10/2021 và đã nhiều lần liên hệ mua ma túy của A, việc trả tiền mua ma túy thì hoặc T7 đưa tiền mặt hoặc chuyển từ tài khoản V2 số 100002023971 mang tên Dương Thị Hồng N1 vào tài khoản ngân hàng A2 số 549520502xxxx mang tên Nguyễn Thị Hồng H2 mà A yêu cầu.

Khoảng 6 giờ 40 phút ngày 05/12/2021, tại khu vực gần bờ đập thuộc tổ A, thị trấn L, huyện B, tỉnh L, tổ công tác thuộc Phòng PC04 Công an tỉnh L và Công an huyện B phát hiện bắt quả tang Phạm Văn T7, thu giữ trong túi áo khoác bên ngoài Tịnh đang mặc có một hộp nhựa màu trắng, nhãn màu xanh có chữ C1, bên trong có chứa 60 gói giấy đều có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy. Tại vị trí túi áo khoác phía ngoài, bên trái của T7 đang mặc có một hộp nhựa màu xanh, nắp trắng có chữ DPNV, bên trong có chứa 56 gói giấy đều đựng chất bột màu trắng ngà nghi là ma túy, 27 đoạn ống hút nhựa màu trắng có chứa chất bột màu trắng ngà nghi là ma túy.

Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong số chất nghi là ma túy nêu trên. Tiếp tục khám xét tại chỗ ở của T7 tại tổ A, thị trấn L, huyện B, tỉnh L, lực lượng Công an phát hiện tại kho để đồ bên trái phía từ cổng vào có đống bạt dùng để phơi cà phê, bên trong có một túi vải màu nâu xám, bên trong túi vải này có 01 túi nylon màu vàng chứa chất bột màu trắng ngà nghi là ma túy và 01 túi nylon màu đen chứa chất cục bột màu trắng ngà, chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy. T7 khai nhận đây là ma túy loại Heroine mua của Nguyễn Thị Kim A cách đây 1 tuần. Cơ quan Công an đã tiến hành thu giữ, niêm phong số chất nghi là ma túy nêu trên.

Quá trình điều tra, T7 khai nhận, ngoài mua Heroine của A, T7 còn mua Heroine của một người tên L1 không rõ lai lịch và một gói ma túy đá của một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch ở thành phố B. Toàn bộ số ma túy mua được T7 mang về nhà cất giấu, để lẫn lộn, phân chia ra thành gói nhỏ, một phần để trong người, một phần cất giấu tại nhà với mục đích vừa sử dụng, vừa bán lại kiếm lời.

Kết luận giám định số 1511/GĐ-PC09, ngày 09/12/2021 của Phòng K2 Công an tỉnh L, kết luận: Phong bì 01: Mẫu cục bột (M1) đựng trong 60 gói giấy (thu giữ tại vị trí trong túi áo khoác bên ngoài Phạm Văn T7 khi bắt quả tang) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 15,7433g, loại Heroine; Phong bì 02: Mẫu cục bột (M2) đựng trong 56 gói giấy và 27 đoạn ống hút (thu giữ tại vị trí túi áo khoác phía ngoài, bên trái của Phạm Văn T7 khi bắt quả tang) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 9,5515g, loại Heroine; Phong bì 03: Mẫu cục BI (M3) đựng trong 03 gói giấy và 02 gói nylon (thu giữ bên trong túi vải màu nâu xám tại nhà của Phạm Văn T7 khi khám xét) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 140,3 gam, loại Heroine; Mẫu tinh thể (M4) đựng trong 02 gói nylon (thu giữ bên trong túi vải màu nâu xám tại nhà của Phạm Văn T7 khi khám xét) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1050 gam, loại Methamphetamine;

Hành vi bán ma túy cho Nguyễn Đình T:

Nguyễn Đình T là đối tượng nghiện ma túy. Năm 2012, T bị Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh L xử phạt 8 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đến ngày 21/9/2017 thì chấp hành án phạt tù xong. Quá trình về địa phương sinh sống, T tiếp tục sử dụng ma túy. Khoảng 11 giờ 21 phút ngày 05/12/2021, T gọi điện thoại cho Nguyễn Thị Kim A hỏi mua 05 bánh Heroine, A báo giá 200.000.000 đồng, T nói trả trước 190.000.000 đồng, còn 10.000.000 đồng trả sau thì A đồng ý và hẹn địa điểm giao ma túy là tại cổng trường cấp 3, L, huyện B, tỉnh L. A nói với T cho người ra giao ma túy, sau đó T chuyển tiền cho A bằng tài khoản ngân hàng A3 số 252100419 của Thượng vào tài khoản ngân hàng A2 số 549520502xxxx mang tên Nguyễn Thị Hồng H2 mà A vẫn sử dụng. Sau khi chuyển tiền vào tài khoản trên thì T gọi điện báo đã chuyển tiền và đến điểm hẹn đợi. A lấy 05 bánh Heroine có dạng khối hộp bỏ vào bịch nylon rồi quấn băng keo màu đen bên ngoài. Đến khoảng 12 giờ ngày 05/12/2021, A dùng điện thoại số 086999xxxx gọi điện cho D số 032727xxxx và nói D qua nhà A để nhận ma túy đi giao cho khách, D đồng ý.

D mượn xe máy Honda Vario biển số 86B3-xxxx của Nguyễn Huy H3 và rủ Nguyễn Văn H4 cùng đi qua nhà A nhưng chỉ nói đi qua thành phố B chơi, mua đồ ăn uống, không cho biết việc D đi nhận ma túy mang đi bán. Khi đến nhà A thì D một mình vào trong nhà, H4 đứng đợi ngoài đường. Tại đây, A đưa cho D một cục Heroine có dạng khối hình hộp, bọc trong nylon quấn băng keo đen, nói D mang qua huyện B, tỉnh L giao cho khách và cho số điện thoại của người nhận là 039986xxxx. Nhận ma túy xong, D giấu vào cạp quần trước bụng rồi ra cổng lấy xe máy chở H4 đi cùng, dọc đường đi thì A gọi điện thoại cho biết địa điểm giao ma túy là tại cổng trường C4, thuộc xã L, huyện B, tỉnh L, khách đang đợi và đi xe ô tô hiệu Mazda CX5 màu đỏ, nghe A nói vậy thì D biết được người nhận ma túy lần này chính là Nguyễn Đình T, là người mà vào ngày 14/11/2021 D đã giao ma túy theo yêu cầu của A.

Đến khoảng 13 giờ 45 phút ngày 05/12/2021, tại đoạn Quốc lộ E thuộc Thôn E, xã L, huyện B, tỉnh L, khi D đang mang theo cục H5 và chở theo H4 ngồi sau bằng xe máy hiệu Honda Vario, biển kiểm soát 86B3-xxxx thì bị Công an tỉnh L và Công an xã L yêu cầu dừng xe, kiểm tra và phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong cạp quần trước bụng D một cục hình hộp có kích thước khoảng 10cm x 10cm x 2,7cm, được quấn băng keo màu đen bên ngoài, bên trong là một gói nylon chứa Heroine. D khai nhận đây là ma túy Heroine mà D đang đi giao cho khách mua ma túy của A là Nguyễn Đình T. Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D, thu giữ niêm phong số chất nghi là ma túy thu trên người D và các đồ vật, tài liệu có liên quan.

Căn cứ lời khai nhận của Hồ Viết D, vào khoảng 16 giờ đến 17 giờ ngày 14/11/2021 tại Cổng trường C4, xã L, huyện B, tỉnh L, Cơ quan Công an đã tiến hành xác minh và ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp Nguyễn Đình T khi T đang đứng đợi D đến giao ma túy tại khu vực cổng trường cấp 3 L, xã L, huyện B, tỉnh L. Tiến hành khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của T tại ngôi nhà trên mảnh đất trồng gừng thuộc thôn B, xã Đ, huyện L, tỉnh L, cơ quan Công an đã phát hiện tại vị trí bên dưới miếng gỗ bậc cầu thang trong nhà có một miếng nylon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng là ma túy loại Heroine, cơ quan Công an đã lập biên bản thu giữ toàn bộ chất nghi là ma túy nói trên.

Kết luận giám định số 1513/GĐ-PC09, ngày 9/12/2021 của Phòng K2 Công an tỉnh L, kết luận: Mầu cục bột (thu giữ tại vị trí trong cạp quần trước bụng của Hồ Viết D) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 190,8 gam, loại Heroine.

Kết luận giám định số 1514/GĐ-PC09, ngày 9/12/2021 của Phòng K2 Công an tỉnh L, kết luận: Mẫu cục bột (thu giữ tại vị trí bên dưới miếng gỗ bậc cầu thang trong nhà của Nguyễn Đình T) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1033 gam, loại Heroine.

Ngoài bán ma túy cho các đối tượng nêu trên, vào tối ngày 04/12/2021 đối tượng tên T6 gọi điện thoại cho Nguyễn Thị Kim A báo có lô ma túy dạng “Kẹo” tức là ma túy thuốc lắc gần 7.000 viên đang đến ngã ba 46, H, Bình Thuận. T6 nói A ra nhận mang về cất giấu và bán, T6 báo giá là 135.000.000 đồng/1.000 viên, A đồng ý mua. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, A gọi điện thoại cho Hồ Minh Đ, là người sử dụng ma túy có quen biết A ra Ngã ba 46, Quốc lộ A, thuộc địa phận thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận đề nhận gói hàng giúp A, có người đứng đợi sẵn rồi.

Đ đồng ý và đi xe taxi ra địa điểm mà A nói. Đến khoảng 21 giò cùng ngày tại địa điểm trên, Đ gặp 02 nam thanh niên đi xe ô tô màu đen, không rõ biển số, trong đó một người lấy trong xe ô tô ra một gói nylon màu xám bạc (dạng màu xám bạc trắng) được bọc kín đưa cho Đ, Đ cầm gói đồ này rồi đi xe taxi về nhà. Sau đó, Đ gọi điện thoại cho A báo đã nhận được gói đồ thì A nói Đ giữ và mở gói đồ ra để kiểm tra giúp A. Khi mở gói nylon này ra thì Đ thấy bên trong có 07 túi nylon màu trắng dạng túi zip và đều có chứa nhiều viên nén màu xám và màu xanh, Đ biết đây là ma túy thuốc lắc nên báo cho A biết, Đ đã đếm được khoảng hơn 6.400 viên (khi tiến hành giám định thì có tổng cộng 6.412 viên), quá trình đếm Đ có ghi số lượng viên thuốc lắc trong từng bịch nylon mà Đ đếm được lên bề mặt từng bịch, đếm xong Đ gọi điện thoại báo số lượng ma túy cho A. Sau đó Đ bỏ tất cả số thuốc lắc trong 07 bịch nylon vào lại túi nylon màu xám bạc rồi giấu dưới bồn rửa chén trong phòng bếp nhà Đ.

Đến 18 giờ 10 phút ngày 05/12/2021, khi A đang ở nhà tại thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Bình Thuận thì bị Cơ quan Công an tỉnh T giữ người trong trường hợp khẩn cấp. A đã chủ động khai việc nhờ Hồ Minh Đ cất giấu ma túy vào ngày 04/12/2021. Cơ quan Công an đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Hồ Minh Đ, khám xét và thu giữ 6.412 viên ma túy thuốc lắc này tại chỗ ở của Đ ở Khu phố D, phường p, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

Kết luận giám định số 1512/GĐ-PC09, ngày 9/12/2021 của Phòng K2 Công an tỉnh L, kết luận: Mầu các viên nén màu xám (Ml) đựng trong 07 túi nylon (thu giữ khi khám xét đối với Hồ Minh Đ) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3.549,9 gam, loại MDMA; Mầu các viên nén màu xanh (M2) đựng trong 01 túi nylon (thu giữ khi khám xét đối với Hồ Minh Đ) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 13,1 gam, loại MDMA.

Ngoài số ma túy thuốc lắc đã bị thu giữ nêu trên thi Nguyễn Thị Kim A khai nhận đang đợi T6 gửi thêm ma túy qua nhà xe K3, có số điện thoại 098612xxxx, tại khu vực Quốc lộ A, ngã ba 46 T - H - Bình Thuận, số điện thoại người nhận là của Hồ Minh Đ: 093705xxxx, tên người nhận là Chị T1. Theo lời khai của A, Công an tỉnh L phối hợp với Công an tỉnh B đã tiến hành thu giữ được hai bánh Heroine mà T6 gửi vào cho A trong thùng hàng trên xe khách biển so 14F-xxxx của nhà xe K3 tại địa phận xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

Kết luận giám định số 1521/GĐ-PC09, ngày 11/12/2021 của Phòng K2 Công an tỉnh L, kết luận: Mau cục bột (thu giữ trên xe khách Ka Long) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 705,9g, loại Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT: 09; MDMA là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 27; Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 của Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Trong vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L Quyết định khởi tố bị can và ra Lệnh bắt tạm giam đối với Phạm Văn T7 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, trong thời gian Viện kiểm sát nhân dân tỉnh L phê chuẩn Quyết định và Lệnh tạm giam thì T7 đã chết ngày 13/12/2021. Do vậy Cơ quan điều tra đã có Công văn rút và hủy bỏ các Quyết định và Lệnh tạm giam đối với Phạm Văn T7.

Đối với các đối tượng tên T6, D1 là người bán ma túy và chuyển ma túy cho Nguyễn Thị Kim A và đối tượng nam thanh niên đã đến nhà A để lấy tiền bán ma túy theo yêu cầu của T6. Tuy nhiên, do A cung cấp thông tin về các đối tượng này không đầy đủ nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau. Việc Nguyễn Thị Kim A sử dụng tài khoản ngân hàng A2 mang tên Nguyễn Thị Hồng H2 (là mẹ ruột của bị cáo) để giao dịch mua bán ma túy nhưng bà H2 không biết, không liên quan nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý đối với bà H2. Đối với các đối tượng mua ma túy của Nguyễn Thị Kim A nhưng do A cung cấp thông tin về các đối tượng này không đầy đủ nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau. Riêng đối tượng Phạm Hoàng L2 là người mua ma túy của A đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh L khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên không xem xét xử lý trong vụ án này. Đối với các lái xe, phụ xe của nhà xe K3 gồm: Nguyễn Tiến V1, Nguyễn A C2, Nguyễn Văn H6, Nguyễn Văn C3, quá trình điều tra xác định các đối tượng trên không biết việc 02 bánh Heroine được cất giấu trong thùng hàng để trên xe ô tô biển số 14F-xxxx nên không đủ căn cứ để xử lý.

Ngoài ra, có một số đối tượng khác có liên quan đến việc mua bán, vận chuyển ma túy nhưng quá trình điều tra đã xác định không đủ căn cứ để xử lý hoặc tách ra và tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là đúng pháp luật.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm 37/2023/HS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L, Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị Kim A, Hồ Viết D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Các bị cáo Hồ Minh Đ và Nguyễn Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim A tù chung thân.

Căn cứ Điều 55; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, tổng hợp với phần hình phạt 30 năm tù chua chấp hành của Bản án số 32/2016/HSST ngày 16/8/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh L và Bản án số 06/2017/HSST ngày 16/3/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, buộc bị cáo Nguyễn Thị Kim A chấp hành hình phạt chung là tù chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/12/2021. Phạt bổ sung 100.000.000 (một trăm triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

2. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Hồ Viết D tù chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/12/2021. Phạt bổ sung 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

3. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Hồ Minh Đ tù chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/12/2021. Phạt bổ sung 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để sung ngân sách nhà nước.

4. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T 15 (mười lăm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/12/2021. Phạt bổ sung 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để sung ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 21/8/2023 và ngày 22/8/2023, bị cáo Hồ Minh Đ1 và Hồ Viết D kháng cáo cùng nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, các bị cáo Hồ Viết D và Hồ Minh Đ giữ nguyên kháng cáo và trình bày: Các bị cáo và Nguyễn Thị Kim A có quan hệ xã hội. Xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xét xử bị cáo Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng hành vi phạm tội của các bị cáo. Tuy nhiên, hình phạt tù chung thân đối với các bị cáo là quá nghiêm khắc. Vì vậy, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Hồ Viết D trình bày: Xác định bị cáo được Nguyễn Thị Kim A nhờ giao ma túy. Lý do xin giảm nhẹ hình phạt là bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội.

Bị cáo Hồ Minh Đ trình bày: Xác định bị cáo được Nguyễn Thị Kim A nhờ nhận ma túy và mang về nhà cất giữ. Lý do xin giảm nhẹ hình phạt là bị cáo đã thấy hành vi phạm tội của mình nên đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H có ý kiến:

Đơn kháng cáo của bị cáo đúng thời hạn nên vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, các bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xét xử bị cáo Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Các tình tiết giảm nhẹ đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khi lượng hình. Tại phiên tòa, các bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Trong vụ án này, các bị cáo D, Đ đã mua bán, tàng trữ số lượng ma túy rất lớn nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt tù chung thân là chưa nghiêm, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, do Viện kiểm sát không kháng nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị theo hướng tăng hình phạt đối với các bị cáo và Hồ Viết D, Hồ Minh Đ.

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Viết D trình bày:

Các Luật sư thống nhất tội danh truy tố bị cáo D như các hành vi phạm tội đã nêu trong bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, bị cáo không chủ động mua bán ma túy mà chỉ làm theo yêu cầu của A là nhờ giao ma túy, đồng thời quá trình điều tra, bị cáo D đã giúp cơ quan công an nhanh chóng điều tra vụ án. Bị cáo có một số tình tiết giảm nhẹ chưa được xem xét, cụ thể: Bị cáo đã tự thú; khi bị phát hiện thi đã chủ động khai ra đối tượng Thượng trong vụ án nên thuộc trường hợp đã hợp tác với cơ quan điều tra phá án; Bị cáo tự khai thêm một số lần mua bán ma túy. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo D, giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo D thống nhất nội dung bào chữa của Luật sư và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Hồ Minh Đ trình bày:

Thống nhất tội danh truy tố bị cáo Đ nên Luật sư không tranh luận về nội dung này. Bị cáo chỉ được A nhờ nhận hàng mà không biết là ma túy. Bị cáo chỉ biết là ma túy sau khi đã nhận về nên cất giấu theo yêu cầu của A. Trong việc này, bị cáo hoàn toàn không được hưởng lợi. Bị cáo có nhân thân tốt, cha bị cáo là người có công với cách mạng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đ, giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Đ thống nhất nội dung bào chữa của Luật sư và đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đà được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ trong vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Các bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ kháng cáo đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự nên vụ án được xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xác định Tòa án xét xử bị cáo D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xét xử bị cáo Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng nhung hình phạt tù chung thân đối với các bị cáo là quá nghiêm khắc nên các bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[3] Đối chiếu với các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định:

Vì mục đích kiếm lời, trong năm 2021 Nguyễn Thị Kim A đã tìm mua ma túy của đối tượng tên T6 (không rõ nhân thân, lai lịch) để bán lại cho nhiều đối tượng, cụ thể:

Ngày 05/12/2021, Nguyễn Thị Kim A đã thỏa thuận bán cho Nguyễn Đình T 190,8g H, với giá 190.000.000 đồng. Sau đó, A thuê Hồ Viết D đi giao số ma túy này cho T thì bị cơ quan công an bắt quả tang thu giữ toàn bộ số ma túy trên. Khám xét tại nhà của Nguyễn Đình T thu giữ 0,1033g Heroine, số ma túy này T nhờ một người taxi không rõ lai lịch mua giúp với số tiền 200.000 đồng để sử dụng.

Khoảng tháng 10/2021, Phạm Văn T7 đã nhiều lần mua ma túy của Nguyễn Thị Kim A vừa để sử dụng, vừa bán lại kiếm lời. Ngày 05/12/2021, Cơ quan Công an đã bắt quả tang và khám xét chỗ ở của Phạm Văn T7 thu giữ 165,5948g Heroine là số ma túy do T7 đã mua của Nguyễn Thị Kim A trước đó nhung Nguyễn Thị Kim A thuê Hồ Viết D giao cho T7.

Ngày 04/12/2021, Nguyễn Thị Kim A đã điện thoại nhờ Hồ M đi đến ngã ba D T - H - Bình Thuận nhận ma túy do A mua của đối tượng tên T6 (không rõ nhân thân, lai lịch). Sau khi nhận ma túy cho A thì Đ đem về nhà cất giấu. Cơ quan công an đã khám xét và thu giữ tại nhà Đ ma túy loại MDMA, khối lượng 3.563g.

Ngoài ra, vào ngày 07/12/2021, Cơ quan công an còn thu giữ trên xe ô tô khách 14F-00137 tại H - Bình Thuận 705,9g Heroine, số ma túy này, Nguyên Thị Kim A mua của một người tên T6, chưa kịp nhận thì bị cơ quan Công an thu giữ.

[4] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Thị Kim A, Hồ Viết D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Các bị cáo Hồ Minh Đ và Nguyễn Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 4 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Xét kháng cáo của các bị cáo, thấy rằng:

[5.1] Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm xác định Nguyễn Thị Kim A giữ vai trò chính, phải chịu trách nhiệm hình sự với khối lượng ma túy 3.563 gam, loại MDMA và 1.062,2948 gam, loại Heroine nên phải chịu mức án cao nhất của khung hình phạt nhưng do thời điểm bị cáo phạm tội và xét xử, Nguyễn Thị Kim A đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù chung thân là đúng quy định. Bị cáo Hồ Viết D được Nguyễn Thị Kim A thuê giao ma túy đã tích cực tham gia và trực tiếp đi giao ma túy số lượng 13 lần cho Nguyễn Đình T, Phạm Văn T7, với tổng khối lượng 190,8 gam Heroine nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định D đồng phạm với A trong việc mua bán trái phép 190,8 gam Heroine; Bị cáo Hồ Minh Đ được Nguyễn Thị Kim A nhờ đi lấy ma túy, sau đó đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng 3.563 gam MDMA. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét vai trò của từng bị cáo, đồng thời khi lượng hình các thể hóa hình phạt của từng bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là phù hợp.

[5.2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ làm tăng tệ nạn nghiện hút ma túy đang được toàn xã hội cùng chung tay ngăn chặn, bài trừ, mà còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác trong xã hội. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng, đầy đủ tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và xử phạt các bị cáo hình phạt tù chung thân là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo cũng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ đặc biệt.

[5.3] Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ và nội dung bào chữa của Luật sư của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[6] Các bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ phải chịu án phí phúc thẩm. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Viết D.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Minh Đ.

3. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2023/HS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh L.

4. Tuyên bố bị cáo Hồ Viết D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Hồ Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

5. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, 5.1. Xử phạt bị cáo Hồ Viết D tù chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/12/2021.

5.2. Phạt bổ sung 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng sung ngân sách nhà nước.

6. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

6.1. Xử phạt bị cáo Hồ Minh Đ tù chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/12/2021.

6.2. Phạt bổ sung 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để sung ngân sách nhà nước.

7. Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam các bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ để đảm bảo thi hành án.

8. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Hồ Viết D, Hồ Minh Đ, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

9. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

10. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 976/2023/HS-PT

Số hiệu:976/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về