Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 66/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 66/2022/HS-ST NGÀY 19/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

La Thanh H (tên gọi khác: M), sinh ngày 24/9/1992 tại tỉnh Phú Yên; nơi cư trú: thôn N, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông La Thanh H, sinh năm 1972 và bà Trần Thị L, sinh năm 1973; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 07/12/2004 và ngày 13/02/2007 bị đưa vào Trường giáo dưỡng, đã chấp hành xong. Ngày 18/9/2009 bị Công an thành phố T xử phạt hành chính về hành vi gây thương tích cho người khác. Ngày 16/12/2010 bị Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xử phạt 09 năm tù về tội “Giết người”, chấp hành xong ngày 26/4/2017.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/10/2021; có mặt.

- Người làm chứng:

Chị Nguyễn Đàng Bảo L, sinh năm 1993; cư trú tại: số M đương T, Phường K, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Anh Lê Xuân T, sinh năm 1977; cư trú tại: khu phố L, Phường T, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Chị Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1998; cư trú tại: số N đường Y, Phường S, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1985; cư trú tại: thôn H, xã X, thị xã S, tỉnh Phú Yên (hiện đang chấp hành án tại Trại giam A2 - Bộ Công an); có mặt.

Anh Nguyễn T, sinh năm 1973; cư trú tại: thôn P, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Anh Huỳnh Nguyên T, sinh năm 1993; cư trú tại: thôn P, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 2003; cư trú tại: số Y đường N, Phường K, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Anh Nguyễn Hậu P, sinh năm 2000; cư trú tại: thôn N, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 2001; cư trú tại: thôn L, xã A, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Anh Phan Công D, sinh năm 2002; cư trú tại: thôn L, xã A, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

Anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1995; cư trú tại: thôn N, xã B, thành phố T, tỉnh Phú Yên; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 12/10/2021, La Thanh H ngồi trước số nhà X đường Y, Phường K, thành phố T thì thấy lực lượng tuần tra Công an thành phố T nên bỏ chạy. Khi chạy, H ném một túi xách màu nâu bên trong có chứa ma tuý đá lên tường rào phía Đông chùa B rồi tiếp tục chạy. Nghi vấn H liên quan đến ma tuý nên Tổ tuần tra truy đuổi và bắt giữ được H, phát hiện trong túi quần bên trái của H có 02 túi nylon bên trong có chứa ma tuý đá. Kiểm tra túi xách trên tường rào phía Đông chùa B bên trong có 02 túi nylon lớn, 22 túi nylon nhỏ được hàn kín, bên trong chứa ma tuý đá và 02 túi nylon bên trong mỗi túi có dính các hạt ma tuý đá. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Qua điều tra, H khai cất giấu số ma tuý đá trong túi quần là để sử dụng, số ma tuý này H mua của một người tên C (không rõ lai lịch, địa chỉ).

Kết luận giám định số 293/GĐ-PC09 ngày 18/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên kết luận:

- Tinh thể màu trắng trong 02 bì nylon trong suốt hàn kín (thu giữ trong túi quần Hùng) là ma tuý, có tổng khối lượng 0,21 gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng trong 22 bì nylon trong suốt hàn kín (thu giữ trong túi xách của Hùng) là ma tuý, có tổng khối lượng 2,3 gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng trong 02 bì nylon trong suốt hàn kín (thu giữ trong túi xách Hùng) là ma tuý, có tổng khối lượng 3,617 gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng trong 02 bì nylon trong suốt hàn kín (thu giữ trong túi xách Hùng) là ma tuý, một bì không xác định được khối lượng, một bì có khối lượng 0,037 gam, loại Methamphetamine.

Tổng cộng 6,164 gam ma tuý loại Methamphetamine.

Về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý: Trong tháng 9 và tháng 10 năm 2021, La Thanh H đã 05 lần bán ma tuý loại Methamphetamine cho các đối tượng Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thành T, Huỳnh Nguyên T và Nguyễn Xuân T, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng tháng 9/2021, Nguyễn Thị Đ điện thoại cho H hỏi mua 300.000 đồng ma tuý đá, H đồng ý và hẹn Đ đến ngã 5 đường M giao ma tuý. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Đàng Bảo L đến gặp Đ. Đ lấy 300.000 đồng đưa cho H, H nhận tiền và lấy 01 bì ma tuý đá trong túi quần ra đưa cho Đ đem về sử dụng.

Lần thứ hai: Cùng trong tháng 9/2021, Nguyễn Thị Đ điện thoại cho H hỏi mua 300.000 đồng ma tuý đá, H đồng ý và hẹn Đ đến cổng sau Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên để giao ma tuý. Đ đến đứng gần nhà nghỉ T đối diện cổng sau Bệnh viện chờ khoảng 15 phút sau Hùng điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Đàng Bảo L đến gặp Đ. Đ lấy 300.000 đồng đưa cho H, H nhận tiền và lấy 01 bì ma tuý đá trong túi quần ra đưa cho Đ đem về sử dụng.

Lần thứ ba: Khoảng 19 giờ một ngày đầu tháng 10/2021, Nguyễn Thành T cùng Nguyễn Hậu P đang ngồi uống nước tại vỉa hè đường N đối diện trường H. Lúc này, P nảy sinh ý định sử dụng ma tuý nên rủ T mua ma tuý sử dụng, T đồng ý. T điện thoại cho La Thanh H hỏi mua 300.000 đồng ma tuý đá, H hẹn T ra nhà trọ của H ở gần cổng sau Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên giao ma tuý. P chở T đến nhà trọ của H, P ngồi ngoài xe còn T vào nhà trọ gặp H mua 300.000 đồng ma tuý đá. Sau đó T mang về nhà sử dụng một mình.

Lần thứ tư: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 06/10/2021, Huỳnh Nguyên T đang ở nhà thì muốn sử dụng ma tuý nên điều khiển xe đi mua ma tuý. Khi ra đến đầu đường thì gặp Nguyễn T1 nên T rủ T1 đi gặp La Thanh H để mua ma tuý đá, T đồng ý. T điện thoại cho H mua 300.000 đồng ma tuý đá. H đồng ý và hẹn T đến trước nhà nghỉ 68 gần Bệnh viên đa khoa tỉnh Phú Yên. Sau đó, T điều khiển xe chở T1 đến trước nhà nghỉ 68, T điện thoại cho H thì thấy H từ trong phòng trọ đối diện kho sắt M đi ra gọi T. T chở T1 đến gặp H và T đưa cho H 300.000 đồng, H nhận tiền và đưa cho T 01 bì ma tuý đá. T chở T1 đến quán cà phê T rồi T mang ma tuý về nhà sử dụng một mình.

Lần thứ năm: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 11/10/2021, Nguyễn Xuân T cần sử dụng ma tuý đá nên T liên lạc với H hỏi mua ma tuý, H đồng ý và hẹn T đến ngã 5 đường M giao ma tuý. T điều khiển xe đến chợ L thì gặp Phan Công D nên T rủ D đi cùng. Thoại chở D đến ngã 5 đường M chờ khoảng 05 phút thì H điều khiển xe đến. T mua của H 400.000 đồng ma tuý đá, H nhận tiền và lấy trong túi xách ra một bì ma tuý đá đưa cho T. T nhận ma tuý và chở D về nhà, sau đó, T đem ma tuý về nhà sử dụng một mình.

Cáo trạng số 50/CT-VKSTH ngày 02/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hoà truy tố bị cáo La Thanh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo La Thanh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Mua bán trái phép chất ma tuý”; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự; phạt bị cáo từ 09 năm đến 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, từ 06 năm đến 07 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho hai tội; phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu huỷ 5,803 gam ma tuý loại Methamphetamine (còn lại sau giám định); 01 túi xách da màu nâu có hoa văn; 02 túi nylon trong suốt; 01 bì nylon có chữ Lovely; 01 đoạn ống nhựa màu trắng có một đầu nhọn, một đầu bằng; 01 đoạn ống nhựa màu đỏ có một đầu nhọn, 01 đầu bằng; 01 đoạn ống nhựa trong suốt có một đầu nhọn, một đầu bằng hàn kín; 01 cái kéo bằng kim loại; 01 kéo bằng kim loại có cán bằng nhựa màu xanh trắng; 01 bật lửa màu xanh có chữ “IFLANE”; 01 bật lửa bằng nhựa màu xanh tím có chữ “Hoa Việt”; 01 gói thuốc lá hiệu 555 bên trong có 8 điếu thuốc; 01 cái bu lông phần đáy cạnh có số 7.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 436.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Vtel A2 màu đen loại bàn phím.

Giao 01 xe mô tô Suzuki SATRIA màu vàng biển số 66B1-xxxxx số khung RLSDL11ANJV115551, số máy CGA1-515546 đã qua sử dụng kèm theo 01 giấy đăng ký xe mang tên Phạm Hoàng H và 01 chìa khoá xe cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuy Hoà xử lý theo quy định.

Bị cáo La Thanh H thừa nhận hành vi tàng trữ ma tuý trong túi quần, không thừa nhận số ma tuý trong túi xách màu nâu có hoa văn được thu giữ ở tường rào phía Đông chùa B là của mình và không thừa nhận bị cáo có hành vi mua bán trái phép chất ma tuý như trong Cáo trạng đã truy tố.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tuy Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo chỉ khai nhận có hành vi tàng trữ số ma tuý có khối lượng 0,21 gam, loại Methamphetamine mà Cơ quan Công an đã thu giữ trong túi quần của bị cáo, không thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý đối với số ma tuý trong túi xách màu nâu mà lực lượng Công an đã thu giữ tại tường rào phía Đông Chùa B. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của những người làm chứng có tại hồ sơ vụ án gồm anh Lê Xuân T, chị Nguyễn Thị Bích T nhìn thấy chính bị cáo là người ném túi xách này lên tường rào Chùa B; chị Nguyễn Đàng Bảo L khai bị cáo thường sử dụng túi xách có đặc điểm như túi xách này và tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 12/10/2021, bị cáo đã ký vào biên bản trong đó thể hiện tài liệu, đồ vật thu giữ, tạm giữ có túi xách và các vật chứng khác của vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 12/10/2021, bị cáo La Thanh H đã có hành vi cất giấu 6,164 gam ma tuý loại Methamphetamine trong túi quần và trong túi xách màu nâu có hoa văn. Do đó, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đồng thời, bị cáo cũng không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma tuý. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của người làm chứng chị Nguyễn Thị Đ tại phiên toà phù hợp với lời khai những người làm chứng khác có tại hồ sơ vụ án. Chị Đ khai có mua ma tuý của bị cáo H hai lần trong tháng 9/2021, khi bị cáo H bán ma tuý cho chị thì có chị L đi theo; chị Nguyễn Đàng Bảo L khai có đi theo bị cáo H hai lần khi bị cáo bán ma tuý cho chị Nguyễn Thị Đ; anh Nguyễn Thành T khai có mua ma tuý của bị cáo H về sử dụng, khi đi có rủ anh Nguyễn Hậu P đi cùng; anh Huỳnh Nguyên T khai có mua ma tuý của bị cáo H về sử dụng, khi đi có rủ anh Nguyễn T1 cùng đi; anh Nguyễn Xuân T khai cùng anh Phan Công D đi mua ma tuý của bị cáo Hùng về để anh Th sử dụng. Từ những chứng cứ trên có đủ cơ sở kết luận: trong tháng 9 và tháng 10 năm 2021, bị cáo La Thanh H đã 05 lần bán ma tuý cho các đối tượng Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thành T, Huỳnh Nguyên T và Nguyễn Xuân T như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương. Bị cáo là người có nhân thân xấu, bị đưa vào trường giáo dưỡng hai lần; năm 2009 bị Công an thành phố Tuy Hoà xử phạt vi phạm hành chính về hành vi gây thương tích cho người khác; năm 2010 bị Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xử phạt 09 năm tù về tội “Giết người” nhưng bị cáo không rút ra bài học cho bản thân mà nay tiếp tục phạm tội. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo thành người có ích cho xã hội. Đồng thời, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để có tác dụng răn đe, giáo dục.

[4] Đối với người có tên “C” mà bị cáo khai đã bán ma tuý cho bị cáo nhưng không xác định rõ lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[5] Đối với chị Nguyễn Đàng Bảo L, mặc dù có hành vi ngồi sau xe bị cáo H khi bị cáo đi bán ma tuý nhưng chị L không có hành vi đồng phạm với bị cáo. Việc chị L biết bị cáo bán ma tuý đã khai với cơ quan có thẩm quyền xử lý nên không xem xét trách nhiệm hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng là 5,803 gam ma tuý loại Methamphetamine (còn lại sau giám định) là vật cấm tàng trữ; 01 túi xách da màu nâu có hoa văn; 02 túi nylon trong suốt; 01 bì nylon có chữ Lovely; 01 đoạn ống nhựa màu trắng có một đầu nhọn, một đầu bằng; 01 đoạn ống nhựa màu đỏ có một đầu nhọn, 01 đầu bằng; 01 đoạn ống nhựa trong suốt có một đầu nhọn, một đầu bằng hàn kín; 01 cái kéo bằng kim loại; 01 kéo bằng kim loại có cán bằng nhựa màu xanh trắng; 01 bật lửa màu xanh có chữ “IFLANE”; 01 bật lửa bằng nhựa màu xanh tím có chữ “Hoa Việt”; 01 gói thuốc lá hiệu 555 bên trong có 8 điếu thuốc; 01 cái bu lông phần đáy cạnh có số 7 không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

01 điện thoại di động hiệu Vtel A2 màu đen loại bàn phím bị cáo tự nguyện nộp vào ngân sách nhà nước; số tiền 436.000 đồng gồm 01 tờ tiền polyme mệnh giá 200.000 đồng; 11 tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng; 01 tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng; 01 tờ tiền giấy mệnh giá 5.000 đồng, 01 tờ tiền giấy mệnh giá 1.000 đồng bị cáo không thừa nhận của mình nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 xe mô tô Suzuki SATRIA màu vàng biển số 66B1-xxxxx số khung RLSDL11ANJV115551, số máy CGA1-515546 đã qua sử dụng; 01 giấy đăng ký xe mang tên Phạm Hoàng H và 01 chìa khoá xe hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuy Hoà xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo có đề nghị trả lại một sim điện thoại số 096277xxxx. Tuy nhiên, xét thấy số sim này bị cáo dùng để liên lạc bán ma tuý nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251;

điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo La Thành H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Phạt bị cáo La Thanh H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (12/10/2021).

Phạt bổ sung bị cáo La Thanh H 10.000.000 (Mười triệu) đồng về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ 5,803 gam ma tuý loại Methamphetamine (còn lại sau giám định); 01 túi xách da màu nâu có hoa văn; 02 túi nylon trong suốt; 01 bì nylon có chữ Lovely; 01 đoạn ống nhựa màu trắng có một đầu nhọn, một đầu bằng; 01 đoạn ống nhựa màu đỏ có một đầu nhọn, 01 đầu bằng; 01 đoạn ống nhựa trong suốt có một đầu nhọn, một đầu bằng hàn kín; 01 cái kéo bằng kim loại; 01 kéo bằng kim loại có cán bằng nhựa màu xanh trắng; 01 bật lửa màu xanh có chữ “IFLANE”; 01 bật lửa bằng nhựa màu xanh tím có chữ “Hoa Việt”; 01 gói thuốc lá hiệu 555 bên trong có 8 điếu thuốc; 01 cái bu lông phần đáy cạnh có số 7.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Vtel A2 màu đen, loại bàn phím, bên trong có một sim điện thoại số 096277xxxx; số tiền 436.000 đồng gồm 01 tờ tiền polyme mệnh giá 200.000 đồng; 11 tờ tiền polyme mệnh giá 20.000 đồng; 01 tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng; 01 tờ tiền giấy mệnh giá 5.000 đồng, 01 tờ tiền giấy mệnh giá 1.000 đồng.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/6/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuy Hoà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hoà).

Giao 01 xe mô tô Suzuki SATRIA màu vàng biển số 66B1-xxxxx số khung: RLSDL11ANJV115551, số máy: CGA1-515546 đã qua sử dụng kèm theo 01 giấy đăng ký xe mang tên Phạm Hoàng H và 01 chìa khoá xe cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuy Hoà xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy số 66/2022/HS-ST

Số hiệu:66/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về