TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HỒNG - TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2021/TLST-HS ngày 10-11-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HS ngày 15-11-2021 đối với bị cáo: Bùi Văn H, sinh năm 1983 tại tỉnh Đồng Tháp. Nơi cư trú: ấp Phước Tiên, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: mua bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Điền, sinh năm 1948 và bà Bùi Thị Ngưng, sinh năm 1954; Tiền án, tiền sự: không; tạm giữ ngày 08-9-2021; hủy bỏ tạm giam ngày 17-9-2021, hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
- Người làm chứng:
1/ Lài Thị Nga, sinh năm 1987 (có mặt);
2/ Nguyễn Văn H, sinh năm 1962 (có mặt);
3/ Nguyễn Văn C, sinh năm 1962 (có mặt);
Cùng cư trú: ấp Phước T, xã Thông B, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp.
4/ Bùi Thị N, sinh năm 1954 (vắng mặt).
Cư trú: xã Thông B, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 20 phút ngày 08-9-2021, lực lượng Công an huyện Tân H tiến hành kiểm tra tiệm bán tạp hóa của Bùi Văn H, ngụ ấp Phước T, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp phát hiện trong nhà H có cất giữ tổng cộng: 4.146 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 2.916 bao thuốc lá nhãn hiệu Nelson và 1.230 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero), sau đó lực lượng Công an huyện Tân Hồng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục: 01-02).
Trong quá trình điều tra Bùi Văn H khai nhận: Vào ngày 06 và 07-9-2021 có mua thuốc lá điếu nhập lậu của ba người nam và hai người nữ (không biết họ tên và địa chỉ), tổng cộng: 4.146 bao thuốc lá (trong đó 2.916 bao thuốc lá nhãn hiệu Nelson và 1.230 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero.
Vật chứng của vụ án thu giữ được gồm:
- 4.146 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 2.916 bao thuốc lá nhãn hiệu Nelson và 1.230 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero).
- 14 bao nylon màu trắng (trên bao có in chữ T913S, thức ăn tôm thẻ chân trắng; 01 thùng giấy các tông màu vàng (trên thùng có in chữ RANGER màu xanh); 01 thùng giấy các tông màu vàng (trên thùng có in chữ Hảo Hảo màu đỏ); 02 bao nylon xách tay (màu đen).
Tại bản cáo trạng số: 32/CT-VKSTH, ngày 08-11-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp truy tố bị cáo Bùi Văn H về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 191 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 191; tình tiết tăng nặng: không;
tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 400.000.000đồng đến 500.000.000đồng.
Về vật chứng: đề nghị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 4.146 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 2.916 bao thuốc lá nhãn hiệu Nelson và 1.230 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero) và 14 bao nylon màu trắng (trên bao có in chữ T913S, thức ăn tôm thẻ chân trắng; 01 thùng giấy các tông màu vàng (trên thùng có in chữ RANGER màu xanh); 01 thùng giấy các tông màu vàng (trên thùng có in chữ Hảo Hảo màu đỏ); 02 bao nylon xách tay (màu đen). Hiện các vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hồng đang quản lý.
Đối với ba người nam và hai người nữ (không biết họ tên và địa chỉ) bán thuốc lá ngoại nhập lậu cho Bùi Văn H. Hiện Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xem xét xử lý sau.
Đối với Lài Thị N (vợ của Bùi Văn H) không biết việc H mua thuốc lá nhập lậu cất trong nhà, đến khi lực lượng Công an vào kiểm tra thu giữ thuốc lá thì mới biết sự việc nên không có căn cứ để xử lý Nga.
Bị cáo H không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính pháp lý của hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Hồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Từ khi khởi tố vụ án cho đến tại phiên tòa sơ thẩm những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Xét thấy, các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi tàng trữ hàng cấm bị cáo khai nhận tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội được thể hiện: vào ngày 06 và 07-9-2021 bị cáo có mua thuốc lá điếu nhập lậu của ba người nam và hai người nữ (không biết họ tên và địa chỉ) nhiều lần, tổng cộng: 4.146 bao thuốc lá (trong đó 2.916 bao thuốc lá nhãn hiệu Nelson và 1.230 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero). Sau đó bị cáo cất giữ trong nhà ngụ ấp Phước Tiên, xã Thông Bình, huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp. Đến ngày 08-9-2021, lực lượng Công an huyện Tân Hồng tiến hành kiểm tra phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang.
Tại điểm e khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển hàng cấm thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 239, 244, 246, 249, 250, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) ...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
… e) Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao”.
[3] Xét hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý đến các loại hàng hóa mà Nhà nước cấm. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản cấm buôn bán, tàng trữ và vận chuyển thuốc lá điếu của nước ngoài trên thị trường Việt Nam. Bởi vì, việc buôn bán, tàng trữ và vận chuyển thuốc lá điếu của nước ngoài gây ra thiệt hại cho trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý thị trường sản xuất, kinh doanh trong nước dẫn đến thất thu ngân sách, nhà nước không kiểm soát được hàng hóa ảnh hưởng đến đến tình hình trật tự xã hội.
Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai nhận là có hành vi tàng trữ hàng cấm nhưng không vì mục đích bán, không nhằm thu lợi bất chính do đó chưa đủ căn cứ và nhằm có lợi cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét tội danh buôn bán hàng cấm đối với bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy bản thân bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi kinh doanh hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ lẽ ra bị cáo phải biết ăn năn hối cải nhưng bị cáo không nhận thức được đều đó mà lại tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Vì vậy, bị cáo H cần phải nhận một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
Về tình tiết tăng nặng không. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần trách nhiệm hình phạt đối với bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung, tuy nhiên bị cáo đang nuôi 04 con nhỏ (lớn nhất sinh năm 2007 nhỏ nhất sinh năm 2018) và buôn bán hàng hóa nhỏ lẻ. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 4.146 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 2.916 bao thuốc lá nhãn hiệu Nelson và 1.230 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero) và 14 bao nylon màu trắng (trên bao có in chữ T913S, thức ăn tôm thẻ chân trắng; 01 thùng giấy các tông màu vàng (trên thùng có in chữ RANGER màu xanh); 01 thùng giấy các tông màu vàng (trên thùng có in chữ Hảo Hảo màu đỏ); 02 bao nylon xách tay (màu đen), có đặc điểm như đã nêu trên.
Qua các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì chị Lài Thị Nga (vợ bị cáo) không biết việc bị cáo mua thuốc lá điếu nhập lậu cất trong nhà, đến khi lực lượng Công an vào kiểm tra thu giữ thì mới biết sự việc và quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu của bị cáo thì chị Nga không biết nên không có căn cứ để xử lý chị Nga còn đối với ba người nam và hai người nữ (không biết họ tên và địa chỉ) bán thuốc lá ngoại nhập lậu cho bị cáo. Hiện Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xem xét xử lý sau. Hội đồng xét thấy là có cơ sở nên chấp nhận theo lời trình bày của của đại diện Viện kiểm sát.
[6] Về án phí: bị cáo Bùi Văn H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm e khoản 2 Điều 191 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 400.000.000đồng (bốn trăm triệu đồng).
2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 4.146 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 2.916 bao thuốc lá nhãn hiệu Nelson và 1.230 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero) và 14 bao nylon màu trắng (trên bao có in chữ T913S, thức ăn tôm thẻ chân trắng; 01 thùng giấy các tông màu vàng (trên thùng có in chữ RANGER màu xanh); 01 thùng giấy các tông màu vàng (trên thùng có in chữ Hảo Hảo màu đỏ); 02 bao nylon xách tay (màu đen).
(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hồng đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10-11-2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Hồng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hồng).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Bùi Văn H phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26-11-2021).
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 31/2021/HS-ST
Số hiệu: | 31/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Hồng - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về