Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 16/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Trong ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Đào Văn T (tên gọi khác: Không - Giới tính: Nam) - sinh ngày 16 tháng 02 năm 1993, tại xã T, huyện Yên Thành, tỉnh N. Nơi cư trú: xóm Đ, xã T, huyện Y, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 12/12; Đảng, đoàn thể: Không; con ông Đào Công T và bà Thái Thị L; vợ, con: Chưa. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/11/2021 đến ngày 17/11/2021 áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Đào Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh N truy tố về hành vi phạm tội như sau.

Vào cuối tháng 10 năm 2021,do có nhu cầu mua pháo sử dụng dịp tết nguyên đán năm 2022, T sử dụng tài khoản Facebook cá nhân “Văn T” tham gia nhóm “Pháo năm 2022” rồi đăng bài hỏi mua pháo nổ. Sau khi đăng bài T có được số điện thoại và tài khoản Zalo của người bán pháo, T đặt mua 05 giàn pháo loại 36 quả và 01 giàn pháo loại 9 quả với giá 4.650.000 đồng. Sau khi thống nhất việc mua bán pháo nổ hai bên hẹn giao nhận pháo và tiền tại cầu Diễn Thái thuộc xóm Tân Diễn, xã T, huyện Yên Thành, N. Khoảng 3 ngày sau T nhận được điện thoại đến địa điểm đã hẹn để nhận pháo, khi đến nơi một người đàn ông đưa cho T 01 bì tải màu trắng xanh bên trong có chứa số pháo mà T đã đặt trước đó, đồng thời T đưa cho người đàn ông này 4.650.000 đồng. Sau khi nhận pháo T mang số pháo trên cất giấu tại nhà văn hóa xóm Đô Thịnh, xã T, huyện Yên Thành. Đến khoảng 20 giờ 30 phút do sợ số pháo trên bị hư hỏng vì ẩm ướt nên T đã đến mang số pháo trên về nhà cất giấu, trên đường mang về thì bị tổ công tác Công an huyện Anh Sơn và Công an xã T phát hiện bắt giữ cùng toàn bộ vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số: 371/KL-PC09 ngày 18/11/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Mẫu vật ký hiệu M1, M2 thu giữ của Đào Văn T gửi tới giám định là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ).

Cáo trạng số: 20/CT-VKSYT ngày 19/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, N truy tố Đào Văn T về tội “tàng trữ hàng cấm” theo điểm c, khoản 1 Điều 191 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét căn cứ các quy định pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đào Văn T từ 7 - 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 14 - 18 tháng.

- Miễn áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì thêm, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ buộc tội: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, Kiểm sát viên; Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, Thẩm phán thì trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đây là vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số lượng pháo tàng trữ là 8,351 kg. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố bị cáo Đào Văn T về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo khoản 1 điều 191 BLHS là phù hợp với quy định của pháp luật.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm lưu thông. Mặc dù, pháp luật đã nghiêm cấm nhưng thời gian qua tình hình tàng trữ các loại pháo xảy ra khá phổ biến trên địa bàn cũng như phạm vi cả nước. Các cơ quan chức năng đã ra sức tuyên truyền nhằm ngăn chặn loại tội phạm này tuy nhiên bị cáo vẫn coi thường pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc truy tố và xét xử đối với bị cáo Đào Văn T là cần thiết và phải lên hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Do đó, cần cân đối giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Xét bị cáo thành khẩn khai báo, nhân thân tốt; không có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng; ngoài lần phạm tội này tại địa phương bị cáo luôn chấp hành tốt các chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân; vì vậy không nhất thiết phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà tiếp tục giao cho gia đình và địa phương quản lý, giám sát, giáo dục như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ nghiêm.

- Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Đối với người đàn ông bán pháo cho bị cáo Đào Văn T khai mua của người đàn ông này, quá trình điều tra chưa xác minh được danh tính nên không đủ cơ sở để xử lý trong vụ án, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 BLTTHS.

+/ 04 bánh pháo còn lại sau khi lấy mẫu giám định có khối lượng 4,926 kg cùng bao bì đã được niêm phong, xét thấy vật chứng là loại cấm tàng trữ do đó cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

(Vật chứng đang lưu tại kho vật chứng công an huyện Yên Thành theo phiếu nhập kho vật chứng số:68, ngày 27 tháng 11 năm 2021. Công an huyện Yên Thành có trách nhiệm chuyển giao cho chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành tiêu hủy theo quy định của pháp luật).

[6] Về án phí: Buộc bị cáo Đào Văn T phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt : Bị cáo Đào Văn T 7 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “tàng trữ hàng cấm” thời hạn thử thách 14 tháng kể từ ngày tuyên án.

+/ Giao bị cáo Đào Văn T cho UBND xã T, huyện Yên Thành, tỉnh N giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

[2] Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 04 bánh pháo còn lại có khối lượng 4,926 kg cùng bao bì đã được niêm phong.

(Vật chứng đang lưu tại kho vật chứng công an huyện Yên Thành theo phiếu nhập kho vật chứng số:68, ngày 27 tháng 11 năm 2021. Công an huyện Yên Thành có trách nhiệm chuyển giao cho chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành tiêu hủy theo quy định của pháp luật).

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về