Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 99/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 99/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2019/QĐST-HS ngày 12/11/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành N, sinh năm 1989, tại: Hà Nội; trú tại: Đường S, khu phố H, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; cha: Nguyễn Đình T (đã chết); mẹ: Đào Thị M (đã chết); vợ: Tô Hồng Khánh M; có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án: Bị cáo có 02 tiền án.

+ Tại bản án số 113/2013/HSPT ngày 23/8/2013, TAND tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xử phạt Nguyễn Thành N 04 năm 06 tháng tù giam về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 08/02/2016.

+ Tại bản án số 103/2016/HSST ngày 29/12/2016, TAND thành phố Bà Rịa xử phạt Nguyễn Thành N 18 tháng tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/3/2018.

Tiền sự: Bị cáo có 02 tiền sự.

+ Tại quyết định số 53/QĐ ngày 14/02/2019, UBND phường Long Tâm áp dụng biện pháp giáo dục tại phường đối với N thời hạn 04 tháng. Chấp hành xong vào ngày 15/6/2019 về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Tại quyết định số 51/QĐ ngày 11/9/2019, TAND thành phố Bà Rịa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với N trong thời gian 15 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo hiện đang chấp hành tại Cơ sở Tư vấn và Điều trị nghiện ma túy tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo Quyết định số 51/QĐ ngày 11/9/2019, TAND thành phố Bà Rịa (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1987; địa chỉ: Đường Đ, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu (vắng mặt).

- Ông Trần Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: Khu phố P, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 7/2019, bị cáo Nguyễn Thành N liên hệ với tài khoản facebook Nguyễn Thành Công để nhờ người này làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 78, tờ bản đồ số 17, tọa lạc tại phường Long Tâm, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu (thửa đất của cha ông Nguyễn Đình Th – ông Th đã chết nhưng chưa làm thủ tục thừa kế) nhằm mục đích sử dụng giấy chứng nhận này vào việc thế chấp vay tiền trả nợ, giá cả hai bên thỏa thuận là 7.000.000đ (bảy triệu đồng). Khoảng giữa tháng 7/2019, tại khu vực gần nhà thờ Long Hương, thành phố Bà Rịa người đàn ông Nguyễn Thành Công đã giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả có số CH 084195 đối với thửa đất nêu trên cho bị cáo N, đồng thời bị cáo giao cho người này số tiền như đã thỏa thuận. Đến ngày 08/8/2019 bị cáo dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả có số CH 084195 thế chấp cho anh Nguyễn Văn C để vay số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) mà không có ý định chiếm đoạt số tiền này. Ngày 09/8/2019, anh C nghi ngờ nên đã đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này đến Văn phòng công chứng Thân Văn Q kiểm tra thì phát hiện đây là giấy giả. Anh C trình báo và giao nộp cho công an 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH084195 mang tên Nguyễn Thành N. Sau khi bị phát hiện, bị cáo đã đến gặp ông C trả số tiền 100.000.000 đồng.

Quá trình điều tra còn xác định: Trước đó, cũng trong tháng 7/2019, do có nhu cầu vay tiền nên bị cáo Nguyễn Thành N có gặp ông Trần Văn H hỏi vay số tiền 700.000.000đ (bảy trăm triệu đồng), bị cáo cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả trên cho ông H để tạo lòng tin. Tuy nhiên, khi cả hai đến Văn phòng công chứng Thân Văn Q làm thủ tục thì bị phát hiện giấy chứng nhận này là giả nên ông H hủy giao dịch cho vay tiền với N.

Tại Kết luận giám định số 1727/PC09-Đ3 ngày 26/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH084195 thửa đất số 78, tờ bản đồ số 17, tọa lạc tại khu phố 2, phường Long Tâm, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu đứng tên Nguyễn Thành N, có đóng dấu của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu và chữ ký của ông Phan Văn M – Phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu:

+ Chữ ký mang tên Phan Văn M trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký mang tên Phan Văn M trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu H là chữ ký của cùng một người. Chữ ký được tạo ra bằng phương pháp in phun màu.

+ Hình dấu tròn trên tài liệu cần giám định ký hiệu A không phải do con dấu có hình dấu mẫu trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu H đóng ra. Hình dấu được tạo ra bằng phương pháp in phun màu.

+ Phôi “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” số: CH 084195, ngày 18/3/2019, có chữ ký mang tên Phan Văn M (ký hiệu A) là phôi giả. Phôi được tạo ra bằng phương pháp in phun màu.

Bản cáo trạng số: 107/CT-VKSTPBR ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu đã truy tố Nguyễn Thành N về tội “ Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm e khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa rút truy tố về sử dụng con dấu, chỉ truy tố bị cáo phạm tội “ Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa phát biểu luận tội, phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra; đặc điểm nhân thân của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành N phạm tội “ Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Đề nghị áp dụng điểm e khoản 2 Điều 341, Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số 084165 tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ làm vật chứng vụ án.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thành N thừa nhận hành vi phạm tội và không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bà Rịa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 08/8/2019, tại khu phố 2, phường Long Tâm, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu, bị cáo Nguyễn Thành N đã có hành vi sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả có số CH084195 thửa đất số 78, tờ bản đồ số 17, tọa lạc tại khu phố 2, phường Long Tâm, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đứng tên Nguyễn Thành N nhằm mục đích tín chấp vay số tiền 100.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn C thì bị phát hiện, anh C đã nhận lại số tiền, bị cáo không có thu lợi bất chính. Khi thực hiện hành vi bị cáo có 02 tiền án, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành N nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa rút truy tố về sử dụng con dấu chỉ truy tố về hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là có căn cứ.

[3] Bị cáo Nguyễn Thành N mặc dù có hành vi sử dụng giấy tờ giả, nhưng với mục đích vay tiền của anh Nguyễn Văn C, chứ không có ý định chiếm đoạt tài sản của anh C và hiện nay bị cáo cũng đã trả lại số tiền 100.000.000 đồng cho anh C nên không xử lý bị cáo về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ.

[4] Đối với hành vi sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay tiền ông Trần Văn H: Do khi nghi ngờ đây là giấy tờ giả nên các bên đã hủy giao dịch vay tiền, việc giao nhận tiền chưa xảy ra nên không có cơ sở kết luận bị cáo sử dụng giấy tờ giả để thực hiện hành vi trái pháp luật với ông H.

[5] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có ý định chiếm đoạt tài sản nên cần miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về tính chất , mức độ đối với hành vi pham tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiêm , bị cáo hoàn toàn nhận thức rõ hành vi sư dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức nhà nước là vi pham pháp luật nhưng vẫn làm . Hành vi của bị cáo ngoài xâm pham trậ t tư quản lý hành chính của cơ quan , nhà nước; còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tư tai địa phương . Bị cáo có tiền án, tiền sự nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[7] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan Công an và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có cha Nguyễn Đình Th là người có công với cách mạng, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[8] Đối với tài khoản facebook Nguyễn Thành Công, hiện vẫn chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên chưa có cơ sở xử lý. Khi nào xác minh được xử lý sau.

[9] Về trách nhiệm dân sự: anh Nguyễn Văn C đã nhận lại số tiền 100.000.000 đồng và không yêu cầu gì thêm.

[10] Về xử lý vật chứng: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số CH 084195 tiếp tục được lưu giữ trong hồ sơ làm vật chứng của vụ án.

[11] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thành N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm e khoản 2 Điều 341; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành N phạm tội “ Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành N 02 (hai ) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật hình sự.

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số CH 084195 tiếp tục được lưu giữ trong hồ sơ làm vật chứng của vụ án.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thành N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (25/11/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 99/2019/HS-ST

Số hiệu:99/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về