Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 04/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 13/01/2022 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 13 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 275/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2021 theo Quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Văn Tr (tên gọi khác: Không); sinh năm 1988 tại huyện QL, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Thôn 1, xã QG, huyện QL, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Văn T và bà Đặng Thị N; có vợ là Chu Thị N và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/01/2020, Cao Văn T dưới tên Nguyễn Văn D bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 30 tháng về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Hiện vụ án đang chờ kết quả xét xử giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2021 đến nay (có mặt).

* Người làm chứng: Chị Chu Thị N, ông Nguyễn Ngọc Đ, ông Nguyễn Bá T, bà Chu Thị N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 10/2017, Cao Văn Tr vào làm công nhân tại huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng tháng 3/2018, Trực có ý định làm giấy phép lái xe giả nên tìm kiếm trên ứng dụng Facebook địa chỉ làm giấy phép giấy xe giả. Người nhận làm giấy phép lái xe giả (Tr không biết tên, địa chỉ) yêu cầu Tr gửi qua ứng dụng ảnh chụp hai mặt của 01 giấy phép lái xe thật và ảnh chân dung Cao Văn Tr. Do quen biết Nguyễn Văn D nên Trực mượn giấy phép lái xe hạng FC của D rồi chụp ảnh mặt trước và mặt sau của giấy phép lái xe gửi cùng ảnh chụp chân dung Tr cho người nhận làm giấy phép lái xe giả. Khoảng hơn một tháng sau, Trực nhận được giấy phép lái xe giả có ảnh Nguyễn Văn Tr nhưng các thông tin cá nhân ghi trên giấy phép là của Nguyễn Văn D.

Ngày 15/7/2019, Trực điều khiển xe ô tô BKS 37C-177.48 của Công ty cổ phần xây lắp Giang Sơn đi từ xã QG, huyện QL đến xã DĐ, huyện Diễn Châu. Khi đi đến ngã tư Cầu Bùng, thuộc xã DK, huyện DCh, tỉnh Nghệ An thì va chạm với xe đạp điện do bà Thái Thị O điều khiển, hậu quả bà O chết tại chỗ. Sau khi gây tai nạn, Tr rời khỏi hiện trường. Đến sáng ngày 16/7/2019, Cao Văn Tr đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu trình diện và giao nộp 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC giả mang tên Nguyễn Văn D nhưng có ảnh chân dung Cao Văn Tr. Quá trình làm việc, Tr khai mình là Nguyễn Văn D, sinh năm 1986, trú tại xã QC, huyện QL, tỉnh Nghệ An. Cơ quan điều tra xác định nguyên nhân vụ tai nạn giao thông là do Tr điều khiển xe ô tô BKS 37C-177.48 chuyển hướng thiếu chú ý quan sát, không bảo đảm an toàn và yêu cầu Tr nộp chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu để phục vụ cho việc giải quyết vụ án.

Ngày 03/9/2019, Trực đến UBND xã QG, huyện QL gặp ông Nguyễn Bá Th là Trưởng Công an xã QG nhờ ông Th làm sổ hộ khẩu giả cho Tr với tên Nguyễn Văn D nhưng ông Th không đồng ý. Ngày 04/9/2021, Tr cùng vợ là Chu Thị Ng đến UBND xã QG nhờ ông Th và ông Nguyễn Ngọc Đ là Phó Trưởng Công an xã QG để nhờ làm sổ hộ khẩu giả cho Tr. Tại đây, Tr và Ng gặp ông Th, ông Đ và bà Chu Thị Ng là chị gái của Ng và giữ chức Phó Chủ tịch UBND xã QG. Bà Ng nhờ ông Th, ông Đ giúp đỡ công việc mà Tr nhờ. Do nể nang nên ông Th và ông Đ đồng ý. Tại phòng làm việc của ông Nguyễn Ngọc Đ, Tr đọc các thông tin giả để Đ ghi vào 01 phôi sổ hộ khẩu mới với các thông tin như sau: Chủ hộ Nguyễn Văn D, sinh ngày 16/02/1986, quê quán: QC, QL, Nghệ An; nơi thường trú xóm 2, xã QG, huyện QL, tỉnh Nghệ An; vợ Hoàng Thị O, sinh ngày 20/8/1991; con Nguyễn Văn H, sinh ngày 06/7/2012 đều nguyên quán QC, QL, Nghệ An. Sau đó Tr đi về. Đến sáng ngày 05/9/2019, Trực đến UBND xã QG thì ông Đ đưa cho Tr 01 sổ hộ khẩu photo giả có chữ ký xác nhận chứng thực bản sao đúng với bản chính của bà Chu Thị Ng. Trong sổ hộ khẩu đó thể hiện các thông tin giả mà Tr đã đọc cho ông Đ và có chữ ký xác nhận của Trưởng Công an xã QG ông Nguyễn Bá Th. Nhận được sổ hộ khẩu giả, Tr đem nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu.

Ngày 05/9/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn D về hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Tại bản án số 01/2020/HSST ngày 08/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu đã tuyên Nguyễn Văn D 15 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Qua công tác quản lý người chấp hành án treo, Công an huyện Quỳnh Lưu phát hiện người có tên Nguyễn Văn D trong bản án số 01/2020/HSST của Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu là không có thật, mà người đó tên là Cao Văn Tr, sinh năm 1988, trú tại thôn 1, xã QG, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

Tại bản kết luận giám định số 284/KL-PC09(Đ3) ngày 09/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

- Dấu vân tay in trên “CHỈ BẢN” số DC382, họ tên: Nguyễn Văn D, sinh ngày 16/02/1986, nơi ĐKNKTT: xóm 2, xã QC, huyện QL, tỉnh Nghệ An ký hiệu A so với dấu vân tay in trên “CHỈ BẢN” số 393, họ tên: Cao Văn Tr, sinh ngày 01/11/1988, nơi cư trú: thôn 1, xã QG, huyện QL, tỉnh Nghệ An ký hiệu M1 do cùng một người in ra.

- Dấu vân tay in trên “CHỈ BẢN” số DC382, họ tên: Nguyễn Văn D, sinh ngày 16/02/1986, nơi ĐKNKTT: xóm 2, xã QC, huyện QL, tỉnh Nghệ An ký hiệu A so với dấu vân tay in trên “CHỈ BẢN” số 186382218, họ tên Nguyễn Văn D, sinh ngày 16/02/1986, nơi ĐKNKTT: xã QC, huyện QL, tỉnh Nghệ An ký hiệu M2 không phải do cùng một người in ra.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS-DC ngày 15/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An truy tố Cao Văn Tr về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

Luận tội tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố nhận định: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Đề nghị Hội đồng xét xử điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Cao Văn Tr từ 24 đến 27 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không tranh luận gì và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Diễn Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo khai nhận hành vi của mình phù hợp lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp nội dung cáo trạng, vật chứng thu giữ được cũng như các chứng cứ, tài liệu điều tra khác đã được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận vào khoảng tháng 9/2019, tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu, Cao Văn Tr đã xuất trình, sử dụng giấy phép lái xe giả và sổ hộ khẩu giả dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Diễn Châu xác định không đúng thông tin cá nhân của người phạm tội trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, sự hoạt động đúng đắn, bình thường và uy tín của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về tài liệu hoặc giấy tờ khác. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình cung cấp giấy phép lái xe giả và sau đó nhờ làm sổ hộ khẩu giả để cung cấp cho Cơ quan điều tra công an huyện Diễn Châu nhằm mục đích giảm nhẹ tội vì bị cáo biết nếu khai thông tin cá nhân thật của mình thì sẽ bị truy tố theo khung hình phạt nặng hơn khi gây tai nạn giao thông do không có giấy phép lái xe. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo, đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: theo xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Đối với Nguyễn Bá Th, Nguyễn Ngọc Đ, Chu Thị Ng đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QL, tỉnh Nghệ An khởi tố về tội “Giả mạo trong công tác” theo quy định tại Điều 359 của Bộ luật hình sự.

Đối với người đàn ông làm giấy phép lái xe giả cho Tr, do không có tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với giấy phép lái xe giả mang tên Nguyễn Văn D, sau khi xét xử vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu đã trả lại cho Cao Văn Tr. Quá trình sử dụng Tr đã làm mất nên không thu giữ được.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Cao Văn Tr 02 (hai) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (13/9/2021).

Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

455
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về