Bản án về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 290/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 290/2023/HS-PT NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI SỬ DỤNG CON DẤU HOẶC TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 25 tháng 7 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Định, xét xử phúc thẩm theo hình thức trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 262/2023/TLPT-HS ngày 31 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Đại S về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2023/HS-ST ngày 24 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Đại S, sinh năm: 1972 tại tỉnh Bắc Giang; nơi ĐKNKTT: P808 Chung cư V N, phường K, quận T, Hà Nội; chỗ ở hiện nay: P.16.6 CT1B Chung cư I, số C T, phường C, quận N, Hà Nội; nghề nghiệp: Nhân viên; trình độ học vấn (văn hóa): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu G, sinh năm 1947 và bà Trần Thị L, sinh năm 1947; vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1972, con: 02 người con, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 23/9/2013, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt Nguyễn Đại S 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt (đã xóa án tích).

Bị bắt giam từ ngày 11/3/2022. Đến ngày 05/4/2022, được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giữa Hồ Thị Mỹ H (sinh năm 1978; trú tại: xóm B, thôn A, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định) và Nguyễn Đại S có mối quan hệ quen biết nhau. Vào năm 2020, chị H liên lạc với Nguyễn Đại S nhờ S giúp chuyển đổi mục đích sử dụng đất các lô đất của bà H ở quận I, Tp . từ đất vườn sang đất thổ cư thì được S đồng ý và thống nhất số tiền chi phí cho việc chuyển đổi mục đích là 1.900.000.000đ. Sau đó, bà H chuyển tiền cho S với tổng số tiền là 1.900.000.000đ như đã thỏa thuận. Sau khi nhận tiền, S có hỏi người quen thì biết các lô đất của bà H không chuyển đổi được mục đích sử dụng đất nên đã thông báo lại cho bà H biết và đã chuyển trả lại cho H số tiền là 500 triệu đồng. Số tiền còn lại 1,4 tỷ đồng S hứa sẽ trả lại cho bà H sau và được bà H đồng ý. Đến khoảng tháng 5/2021, bà H nhiều lần đòi nhưng do S không có tiền trả nên S thỏa thuận với bà H tạm thời chuyển cho H 12 chiếc xe mô tô các loại và 10 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô để trừ nợ dần số tiền 1.400.000.000đ, khi nào S có đủ tiền trả cho H thì S sẽ lấy lại số xe mô tô về trưng bày quán cà phê và giấy tờ trên thì bà H đồng ý.

Sau đó, S đã chuyển cho bà H 02 lần, tổng cộng 12 chiếc xe mô tô các loại và 10 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Lần thứ nhất, vào khoảng tháng 5/2021, S giao cho bà H 09 chiếc xe mô tô các loại và 10 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô (bà H tự thuê xe tải chở từ Hà Nội về Bình Định và không nhớ rõ các loại xe). Lần thứ hai, S gửi xe ô tô khách chuyển cho H thêm 03 chiếc xe mô tô các loại (không nhớ các loại xe mô tô). Sau khi nhận được xe, bà H đã chuyển trả lại cho S 01 chiếc xe nhãn hiệu Dream II do quá cũ, giữ lại 11 chiếc xe mô tô và 10 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Qua kiểm tra xe, bà H phát hiện một số xe bị đục số khung, số máy nên nghi ngờ đã bị S lừa, nên ngày 27/9/2021, bà H đã làm đơn tố cáo Nguyễn Đại S gửi đến Công an. Quá trình điều tra, gia đình S đã trả hết số tiền 1.400.000.000đ cho bà H nên bà H đã rút đơn tố cáo và không có yêu cầu gì.

* Tại các bản kết luận giám định số 308 ngày 27/10/2021; số 312 ngày 20/10/2021; số 166 ngày 19/5/2022; số 167 ngày 31/5/2022 của Phòng K Công an tỉnh Bình Định kết luận:

Chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 29AA-316.96; nhãn hiệu: SUPER CUB 50; Số khung: C50-0056837; Số máy: C50E-0057355 đứng tên Nguyễn Đại S là giả.

Chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 29B1-238.79; nhãn hiệu: CD 125T; Số khung: CD125T-1501426; Số máy: CD125TE-1226454 đứng tên Nguyễn Đại S là giả.

Chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 29B1-238.69; nhãn hiệu: SUPER CUB 70; Số khung: C70-8651826; Số máy: C70E-8649722 đứng tên Nguyễn Đại S là giả.

Chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 29A1-268.89; nhãn hiệu: HONDA- DN-01; Số khung: RC55-1000246; Số máy: RC55E-1000237 đứng tên Nguyễn Đại S là giả.

Chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 63B6-666.66; nhãn hiệu: SUZUKI; Số khung: 13BLWJ137590; Số máy: F125ID120566 (đục lại) đứng tên Nguyễn Trung T1 là giả.

* Đối với 06 xe mô tô còn lại, Cơ quan điều tra đã xác minh nguồn gốc, chủ sở hữu và xác định không phải là vật chứng của các vụ án, gồm:

Xe biển số 29S1-626.16; nhãn hiệu Honda – DREAM II; chứng nhận đăng ký xe mô tô số 027451, đứng tên Trịnh Thị H1 (địa chỉ: Dục Nội Việt Hùng Đ, Hà Nội). Xe biển số 29K6-4442; nhãn hiệu Honda – DREAM; chứng nhận đăng ký số A0314710, đứng tên Nguyễn Nhật Q (địa chỉ: B A2 TT H, Đ, Hà Nội). Xe biển số 29K4-5272; nhãn hiệu Honda – DREAM; chứng nhận đăng ký xe số A0199813, đứng tên Nguyễn Anh T2 (địa chỉ: G P, Hà Nội). Xe biển số 29D1-619.97; nhãn hiệu Honda – CUB; chứng nhận đăng ký số 046880, đứng tên Nguyễn Đức T3 (địa chỉ: A ĐTVH, G, L, Hà Nội). Xe biển số 29AA-071.56; nhãn hiệu Honda – CD50; chứng nhận đăng ký số 008228, đứng tên Phạm Bích L1 (địa chỉ: G, L, Đ, Hà Nội). Xe xe mô tô hiệu PEUGEOT không có số khung, số máy, biển số nên không thể tra cứu và đây là loại xe không cần giấy chứng nhận đăng ký xe theo quy định pháp luật. (BL 111-212, 221-227) Quá trình điều tra, Nguyễn Đại S khai nhận: 04 xe mô tô không rõ nguồn gốc (đều đứng tên Nguyễn Đại S) được S mua qua mạng xã hội Facbook của một người có tên “Hiệp râu”. Khi mua 04 chiếc xe mô tô trên, giữa S và H2 không có hợp đồng mua bán xe, không qua công chứng chứng thực nên S biết sẽ không thể làm thủ tục sang tên cho S theo đúng quy định nhưng S vẫn mua. Sau đó, S biết 04 Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy tên Nguyễn Đại S là giả nhưng vẫn chuyển đưa cho H để cấn trừ nợ (trong đợt giao xe đầu tiên).

Riêng đối với chiếc xe mô tô hiệu SUZUKI, biển số 63B6-666.66, có Chứng nhận đăng ký xe tên Đặng Trung T4 (kết quả giám định đã bị đục lại số máy, Chứng nhận đăng ký xe là giả), S khai nhận mua qua nhóm trên Facebook có tên “Mua, bán xe thể thao” (hiện nay Facbook không còn hoạt động). Khi mua, S thỏa thuận với người bán rồi cho địa chỉ để người bán xe gửi xe cho mình qua xe ô tô khách. Khi nhận xe, S kiểm tra xe, Chứng nhận đăng ký xe đúng số khung, số máy thì giao tiền trực tiếp cho nhà xe (S không nhớ tên nhà xe); S hoàn toàn không biết xe SUZUKI bị đục số khung, số máy và Chứng nhận đăng ký xe tên Đặng Trung T4 là giả.

Kết quả xác minh, làm việc với 05 công dân đứng tên sở hữu 05 chiếc xe rõ nguồn gốc, chính chủ, hợp pháp: Chủ sở hữu các xe mô tô trên đều khai họ bán xe cho những người mua xe cũ; thời gian bán xe đã lâu nên không nhớ rõ người mua xe ở đâu; xe mô tô của họ không bị mất trộm và không nằm trong vụ án nào mà Công an đang điều tra.

* Vật chứng của vụ án đã thu giữ, gồm: 11 chiếc xe mô tô, xe máy và 10 giấy đăng ký chứng nhận xe mô tô.

Đối với 06 xe mô tô, xe máy và 05 giấy chứng nhận đăng ký có thông tin chủ sở hữu hợp pháp, không phải là vật chứng của các vụ án khác được Nguyễn Đại S mua hợp pháp để sử dụng trưng bày quán cà phê. Ngày 30/9/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Định ra Quyết định xử lý vật chứng số 33/QĐ-CSĐT-PC02 bằng hình thức trả lại 06 chiếc xe mô tô, xe máy và 05 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy trên cho Nguyễn Đại S. Tại bản cáo trạng số 88/CT-VKSBĐ-P2 ngày 01/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Nguyễn Đại Sơn về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2023/HS-ST ngày 24 tháng 4 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đại S phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại S 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 4/5/2023, bị cáo Nguyễn Đại S kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đại S, sửa Bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, xem xét quan điểm của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Đại S vắng mặt, nhưng xét thấy bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong đơn kháng cáo, bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm hình phạt.

[2] Lời khai của bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Vào năm 2020, bà Hồ Thị Mỹ H có nhờ Nguyễn Đại S giúp chuyển đổi mục đích sử dụng đất các lô đất của bà H ở quận I thành phố Hồ Chí Minh từ đất vườn sang đất thổ cư, giữa bà H và S thống nhất thỏa thuận chi phí cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất là 1.900.000.000đ và H đã chuyển cho S 1.900.000.000đ. Sau khi tìm hiểu, S được biết các lô đất này không thể chuyển đổi mục đích sử dụng đất nên S đã trả lại cho bà H 500.000.000đ, còn lại 1.400.000.000đ chưa trả. Vì không có tiền để trả cho bà H nên S đã chuyển cho bà H 11 chiếc xe mô tô các loại và 10 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, trong đó có 05 xe mô tô không rõ nguồn gốc, 04 giấy chứng nhận xe mô tô xe máy đứng tên Nguyễn Đại S và 01 xe mô tô Suzuki bị đục số khung, số máy có Giấy chứng nhận đăng ký xe tên Đặng Trung T4 đều là giả để cấn trừ nợ. Như vậy, Nguyễn Đại S sử dụng xe mô tô không rõ nguồn gốc và sử dụng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô giả giao cho bà H để cấn trừ khoản nợ 1.400.000.000đ.

Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đại S về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự, là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, bị cáo Nguyễn Đại S đã từng bị kết án 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, lẽ ra bị cáo phải có ý thức chấp hành tốt quy định pháp luật, nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiên hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến hoạt động của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Khi xét xử sơ thẩm, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tuy nhiên, hồ sơ vụ án thể hiện, ông Nguyễn Hữu G là bố bị cáo là người có công cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương, Huy chương Bảo vệ Tổ quốc (BL-102,103,104,105), đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng Toà án cấp sơ thẩm chưa xem xét áp dụng cho bị cáo. Do có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Về án phí phúc thẩm hình sự: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định tại các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đại S, sửa Bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào Điều 106; Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại S 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về án phí phúc thẩm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đại S không phải chịu án phí phúc thẩm hình sự.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 290/2023/HS-PT

Số hiệu:290/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về