Bản án về tội mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 24/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, Tòa án nhân dân thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa tại trụ sở để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13a/2022/QĐXXST ngày 07/3/2022 đối với bị cáo:

Trịnh Văn Q, sinh năm 1982, Nơi cư trú: thôn N, xã L, thị xã K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Xuân K1 và Vũ Thị N1. Bị cáo có vợ là Lê Thị H và có 03 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2018; tiền sự: Không Tiền án:

- Tại Bản án số 146/2014/HSST ngày 19/9/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương, xử phạt 40 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Q chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/01/2017, chấp hành xong thi hành án dân sự ngày 22/01/2015.

- Tại Bản án số 96/2018/HSST ngày 02/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (bản án xác định tái phạm). Q chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2021, chấp hành xong thi hành án dân sự ngày 30/11/2018.

Nhân thân:

- Quyết định xử lý vi phạm hành chính số 150 ngày 03/11/2005 của Công an huyện Kinh Môn xử phạt Q 500.000 đồng về hành vi đánh bạc, Q chưa thi hành.

- Quyết định xử lý vi phạm hành chính số 111 ngày 09/9/2010 của Công an huyện Kinh Môn xử phạt Q 7.500.000 đồng về hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, Q chưa thi hành.

- Quyết định xử lý vi phạm hành chính số 50 ngày 19/02/2014 của Công an huyện Kinh Môn xử phạt Q 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Q đã thi hành ngày 26/02/2014.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/9/2021 đến ngày 23/9/2021, sau đó được sang biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương.

Người tham gia tố tụng khác

- Người làm chứng:

1. Chu Thị T - sinh năm 1991. Vắng mặt

2. Lương Văn H1 - sinh năm 1981. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 17/9/2021, Trịnh Văn Q đi xe ôm của một người đàn ông không quen biết từ khu vực xã L, thị xã K, tỉnh Hải Dương đến khu vực Q1 thuộc thành phố Hải Phòng để mua ma túy về sử dụng và bán cho người khác kiếm lời. Khi đến nơi, Q gặp 01 người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ, hỏi mua ma tuý gồm: 01 túi nilon bên trong đựng 12 viên dạng nén có hình bông hoa tám cánh, màu vàng, đường kính 01cm, một mặt in gạch kẻ ngang, một mặt in chìm dòng chữ “chu pa chu pa” (còn gọi là ma tuý “kẹo”); 01 túi nilon bên trong đựng chất tinh thể màu trắng (còn gọi là ma tuý “đá”); 20 gói giấy bạc và 02 gói giấy màu vàng bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng là ma túy loại Heroine, với tổng số tiền là 2.300.000đồng. Sau khi mua được ma tuý, Q đi về nhà cất giấu số ma túy vừa mua được vào 01 lọ nhựa hình trụ có nắp màu trắng để dưới nền nhà trong phòng ngủ của Q.

Đến khoảng 12 giờ cùng ngày khi Q đang ở nhà cùng với Chu Thị T, sinh năm 1991, trú tại: xã Đ, huyện T1, tỉnh Hải Dương (là bạn gái của Q) thì có Lương Văn H1, sinh năm 1981, trú tại: Xóm 2, phường H2, thị xã K, tỉnh Hải Dương đến vào phòng ngủ của Q ngồi chơi. Q lấy 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy “đá” (Q để sẵn trong phòng ngủ) và lấy trong lọ nhựa 01 túi nilon chứa ma tuý “đá” lấy một phần ra cho vào bộ dụng cụ sử dụng ma tuý, dùng bật lửa ga hơ nóng, rồi Q bảo T và Hùng cùng sử dụng ma tuý, T và Hùng đồng ý. Đến khoảng 14 giờ 55 phút cùng ngày khi Q, T, H1 đang sử dụng ma túy thì bị Tổ công tác thuộc Công an thị xã Kinh Môn phối hợp với Công an xã L kiểm tra, phát hiện. Thu giữ tại phòng ngủ của Q: tại nền nhà vị trí Q đang ngồi 01 lọ nhựa hình trụ, có nắp màu trắng, kích thước khoảng (4x7)cm, bên trong có: 01 túi nilon chứa 12 viên nén có hình bông hoa tám cánh, màu vàng, đường kính 01cm, một mặt in gạch kẻ ngang, một mặt in chìm dòng chữ “chu pa chu pa” (được niêm phong ký hiệu M1); 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong ký hiệu M2); 20 gói giấy bạc và 02 gói giấy màu vàng, bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (được niêm phong ký hiệu M3). Thu giữ trên nền nhà 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy gồm: 01 chai nhựa loại 330ml (có nhãn hiệu “Wake Up 247”, có nắp màu xanh, trên nắp có gắn 01 ống hút màu da cam dài 32cm và 01 ống hút màu đỏ dài 18cm, nối cùng 01 ống hút màu đỏ dài 14cm, một đầu được quấn giấy bạc dài 02 cm cùng 01 bật lửa ga màu đỏ(được niêm phong ký hiệu M4). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Ngày 18/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kinh Môn tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trịnh Văn Q, kết quả: không phát hiện, thu giữ, đồ vật tài sản gì.

Tại Kết luận giám định số 541/TB- PC09 ngày 17/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: 12 viên nén đều có hình bông hoa tám cánh, màu vàng trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, gửi đến giám định tổng khối lượng là 4,105gam là ma túy, loại MDMA; chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M2, gửi đến giám định khối lượng là 0,370 gam là ma túy, loại Methamphetamine; chất bột (dạng cục) màu trắng bên trong 22 gói giấy được niêm phong trong phong bì ký hiệu M3, gửi giám định tổng khối lượng là 3,332 gam là ma túy, loại Heroine; chất lỏng màu trắng bên trong 01 chai nhựa loại 330ml, có nhãn hiệu “Wake Up 247”, có nắp màu xanh, trên nắp có gắn 01 ống hút màu da cam dài 32cm và 01 ống hút màu đỏ dài 18cm, nối cùng 01 ống hút màu đỏ dài 14cm, một đầu được quấn giấy bạc dài 02cm, là dung dịch chất ma túy, loại Methamphetamine. Do lượng mẫu bám dính rất nhỏ nên không xác định được thể tích Quá trình điều tra, Trịnh Văn Q đã thừa nhận hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 05/CT - VKSKM ngày 06/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn đã truy tố bị cáo Trịnh Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p, q khoản 2 Điều khoản 2 Điều 251 và điểm b, h khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo Q khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng viện kiểm sát truy tố.

- Đại diện VKSND thị xã Kinh Môn giữ nguyên Quyết định truy tố; nêu những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; xem xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn Q phạm hai tội“Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị áp dụng: điểm p, q khoản 2 Điều 251; điểm b, h khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Đề nghị xử phạt: Bị cáo Trịnh Văn Q từ 07 năm 09 tháng đến 08 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành chung cho hai tội từ 15 năm đến 15 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 17/9/2021.

Ngoài ra VKS còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

ơ Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an thị xã Kinh Môn; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Trịnh Văn Q khai nhận số ma túy thu giữ trong 01 lọ nhựa hình trụ, có nắp màu trắng có 01 túi nilon chứa 12 viên nén có hình bông hoa tám cánh, một mặt in chìm dòng chữ “chu pa chu pa” là ma túy loại MDMA; 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamin; 20 gói giấy bạc và 02 gói giấy màu vàng, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột dạng cục màu trắng là ma túy loại Heroin, toàn bộ ma túy thu giữ là của bị cáo, bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời. Bị cáo thừa nhận, bị cáo có hành vi lấy ma túy loại Methamphetamin ra sử dụng, sau đó bị cáo đã rủ T, H1 cùng sử dụng tại phòng ngủ của bị cáo thì bị lực lượng công an phát hiện thu giữ cùng tang vật.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, biên bản niêm phong, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Đã có đủ căn cứ kết luận: Hồi 14 giờ 55 phút ngày 17/9/2021, tại chỗ ở của Trịnh Văn Q thuộc thôn N, xã L, thị xã K, tỉnh Hải Dương, Trịnh Văn Q có hành vi cung cấp chất ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy, sau đó rủ Chu Thị T, Lương Văn H1 để sử dụng chất ma túy tại phòng ngủ của Q. Ngoài ra Q còn có hành vi cất giấu 4,105gam là ma túy, loại MDMA; 0,370 gam là ma túy, loại Methamphetamine; 3,332 gam là ma túy, loại Heroine. Toàn bộ số ma túy bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời.

Tổng khối lượng các chất ma tuý bị cáo cất giấu là 7,807 gam, nhằm mục đích sử dụng và bán kiếm lời. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo p khoản 2 Điều 251 của bộ luật hình sự. Ngoài hành vi cất giấu ma túy với mục đích bán kiếm lời, bị cáo đã có hành vi sử dụng, cung cấp ma túy và công cụ sử dụng ma túy cho chị Chu Thị T và Lương Văn H1 sử dụng ma túy tại phòng ngủ của bị cáo. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Bản thân bị cáo Trịnh Văn Q có hai tiền án, tại bản án số 146/2014/HSST ngày 19/9/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương, xử phạt 40 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Ngày 20/01/2017, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Tại bản án số 96/2018/HSST ngày 02/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy(xác định là tái phạm). Ngày 29/01/2021, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Theo quy định tại khoản 2 Điều 73 của Bộ luật hình sự thì lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên bị cáo còn phải chịu tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 và điểm h khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kinh Môn truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện, khi sử dụng không những gây tác hại cho sức khoẻ, làm mất phẩm giá con người, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy và cũng đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trước đó nên bị cáo hoàn toàn thấy được tác hại của ma túy đối với con người và xã hội, nhận thức được ma túy là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ, nhằm mục đính bán để kiếm lời. Bản thân bị cáo còn là người đã dùng chỗ ở của mình, là người chuẩn bị công cụ sử dụng ma túy, cung cấp ma túy cho T, H1 sử dụng ma túy thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Do vậy, cần phải có mức hình phạt nghiêm mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4]Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội nên xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy bản thân bị cáo là đối tượng không có công việc và thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

- Số ma túy thu giữ trong vụ án, mẫu hoàn lại sau giám định là 03 phong bì dán kín niêm phong ký hiệu T1(bên trong có 01 vỏ túi nilon mầu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu M1), T2 (bên trong có 01 vỏ túi nilon mầu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu M2), T3(bên trong có 20 mảnh giấy bạc, 02 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu M3) đều ghi số 541/TB- PC09 ngày 17/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương, xác định không có giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

- Đối với 01 lọ nhựa có nắp màu trắng và bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa loại 330ml(có nhãn hiệu “Wake Up 247”, có nắp màu xanh, trên nắp có gắn 01 ống hút màu da cam dài 32cm và 01 ống hút màu đỏ dài 18cm, nối cùng 01 ống hút màu đỏ dài 14cm, một đầu được quấn giấy bạc dài 02 cm cùng 01 bật lửa ga màu đỏ xác định không có giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

Theo lời khai của bị cáo, nguồn gốc ma túy thu giữ bị cáo mua của một người ở khu vực Q1 – Hải Phòng. Tài liệu điều tra không xác định được người bán ma túy cho bị cáo là ai, ở đâu. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Kinh Môn tiếp tục làm rõ xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng ma túy của Trịnh Văn Q, Chu Thị T, Lương Văn H1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Kinh Môn đã ra quyết định xử phạt hành chính với T, H1 là phù hợp với quy định của pháp luật.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: điểm p, q khoản 2 Điều 251, điểm b, h khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

- Căn cứ: điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Căn cứ: Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Văn Q phạm tội“Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Trịnh Văn Q 08 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 07 năm 03 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình 15 năm 06 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17/9/2021.

- Xử lý vật chứng:

- Tịch thu cho tiêu hủy số ma túy thu giữ trong vụ án, mẫu hoàn lại sau giám định là 03 phong bì dán kín niêm phong ký hiệu T1(bên trong có 01 vỏ túi nilon mầu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu M1), T2 (bên trong có 01 vỏ túi nilon mầu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu M2), T3(bên trong có 20 mảnh giấy bạc, 02 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu M3) đều ghi số 541/TB- PC09 ngày 17/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương.

- Tịch thu cho tiêu hủy 01 hộp được dán kín, niêm phong mặt trước in chữ Công an tỉnh Hải Dương – Phòng kỹ thuật hình sự số 541/TB- PC09(ký hiệu T4); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa loại 330ml(có nhãn hiệu “Wake Up 247”, có nắp màu xanh, trên nắp có gắn 01 ống hút màu da cam dài 32cm và 01 ống hút màu đỏ dài 18cm, nối cùng 01 ống hút màu đỏ dài 14cm, một đầu được quấn giấy bạc dài 02 cm cùng 01 bật lửa ga màu đỏ.

(Số lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10/3/2022 giữa Công an thị xã Kinh Môn và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kinh Môn).

- Án phí:Bị cáo Trịnh Văn Q phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo:Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

754
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 24/2022/HS-ST

Số hiệu:24/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về