Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BN ÁN 99/2021/HSST NGÀY 13/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 13 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 114/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2021/ QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 1511/TB-TA ngày 27 tháng 8 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị Diễm M(tên gọi khác: M Dĩnh), sinh năm 1986 tại tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: Tổ 6, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Thuê phòng trọ ở tại hẻm 30 đường L, tổ 6, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không rõ cha là ai; con bà: Nguyễn Thị M; có chồng là: Châu B; có 04 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án: 01 tiền án, ngày 21/6/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, tại Bản án số: 57/20219/HS-ST, chưa chấp hành án, vì lý do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; tiền sự: Không, nhưng nhân thân xấu: Ngày 25/7/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tại bản án số: 101/2014/HS-ST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 31/5/2015. Ngày 06/5/2021, bị khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vì đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Ngày 13/5/2021, thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị khởi tố ngày 02/6/2021(hành vi này bị xử lý ở một vụ án khác); bị bắt tạm giam từ ngày 11 tháng 6 năm 2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Nguyễn Đại D(tên gọi khác: Rơi); sinh năm 1987 tại tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: Tổ 10, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lái xe ben; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn B và bà: Lương Thị H; có vợ là: Lương Thảo T; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không, nhưng nhân thân xấu: Ngày 07/7/2003, bị Tòa án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm tuyên phạt 02 năm tù về tội “Cướp tài sản”, tại bản án số: 508/2003/HSPT, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 01/9/2004(đã được xóa án tích). Ngày 06/5/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số: 44/2008/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 30/6/2008(đã được xóa án tích). Ngày 05/4/2013, bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, ti bản án số: 20/2013/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/8/2013 (đã được xóa án tích); bị bắt tạm giữ từ ngày 27 tháng 4 năm 2021, sau đó bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai cho đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Đỗ Hữu L, sinh năm 1963; địa chỉ: Tổ 6, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Diễm M đã bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xét xử tuyên phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và được hoãn chấp hành án, vì đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Thông qua mối quan hệ ngoài xã hội, M có được số điện thoại của đối tượng tên Minh (không rõ nhân thân, lai lịch) ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, là người bán ma túy và M đã nảy sinh ý định mua ma túy đá (loại Methamphetamine) về bán lại kiếm lời. Vào khoảng 09 giờ ngày 25/4/2021, My gọi điện thoại cho Minh hỏi mua 16 gói ma túy đá và một cân tiểu ly, với tổng giá tiền là 15.000.000 đồng thì Minh đồng ý. Hai bên thống nhất với nhau là M sẽ gửi tiền cho Minh trước 7.000.000 đồng và gửi qua xe ô tô khách; số tiền 8 triệu đồng còn lại, sau khi bán hết số ma túy thì M sẽ gửi nốt cho Minh. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, M đón xe thồ của một người đàn ông (không rõ họ tên, lai lịch) chở đi đến khu vực cổng Bến xe Đức Long trên đường Lý Nam Đế, phường Trà Bá, TP.P và đã gửi cho Minh 7.000.000 đồng qua xe ô tô khách (không rõ hãng và biển số xe) chạy tuyến Gia Lai - Kon Tum. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, có người gọi điện thoại cho M nói đến cổng Bến xe Đức Long để nhận đồ. Lúc này, M đón xe thồ của một người đàn ông (không rõ họ tên, lai lịch) chở đến cổng Bến xe Đức Long trên đường Lý Nam Đế, phường Trà Bá, thành phố P và đã nhận 01 gói hàng của 01 xe khách (không rõ hãng và biển số xe) chạy tuyến Kon Tum - Gia Lai, rồi mang về phòng trọ tại hẻm 30 đường Lê Lợi, Tổ 06, phường H, TP.P. Tại phòng trọ, M mở gói hàng ra có tổng số 16 gói ma túy (gồm: 09 gói lớn và 07 gói nhỏ); M cất giấu trong tủ quần áo 07 gói nhỏ và 01 gói lớn, cất giấu 08 gói lớn trong sọt rác tại phòng phòng trọ của M, còn cân tiểu ly thì M cất giấu trên gác bếp.

Nguyễn Đại D và Nguyễn Thị Diễm M là bạn bè với nhau; D là người sử dụng ma túy và biết M có bán ma túy. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 27/4/2021, D đón xe thồ của người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) trên đường Lê Thánh Tôn, phường Ia Kring chở đi đến phòng trọ của M ở hẻm 30 đường L, tổ 06, phường H, thành phố P. Tại phòng trọ, D đã mua của M 01 gói ma túy với giá 400.000 đồng. Khi M vừa nhận tiền của D và D đã nhận gói ma túy đang cầm trên tay thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an tỉnh Gia Lai phối hợp lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P kiểm tra phát hiện và đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thị Diễm M và Nguyễn Đại D. Đã thu giữ của D, gồm: 01 gói nilon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng mà D đã mua của M (đã niêm phong theo quy định và đánh số I) cùng 5.000.0000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh kèm sim số; thu giữ của M, gồm: 400.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (đây là số tiền M đã bán ma túy cho D có được) cùng 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng kèm 01 sim số và 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen kèm 02 sim số. Ngoài ra, M còn tự nguyện giao nộp 06 gói nilon nhỏ bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng và 01 gói nilon lớn bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (đã niêm phong theo quy định và đánh số II). Tiến hành khám xét tại phòng trọ - nơi ở của M, đã thu giữ trong thùng rác để tại phòng bếp 08 gói nilon lớn bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (được niêm phong theo quy định và đánh số IV), thu giữ trên gác bếp 01 cân tiểu ly điện tử màu đen, nhãn hiệu “Am Pưt”. M khai toàn bộ số gói nilon có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng đã bị thu giữ là ma túy đá, M tàng trữ với mục đích để bán kiếm lời; mục đích bán gói nhỏ 400.000 đồng, bán 01 gói lớn 2.000.000 đồng.

Kết luận giám định số: 307/KLGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 01 gói nilon trong bì thư, ghi “I” niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,3466 gam. Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 07 gói nilon trong bì thư, ghi “II” niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 5,9765 gam. Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 08 gói nilon trong bì thư, ghi “IV” niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 23,2809 gam”.

Cáo trạng số: 121/CT-VKS, ngày 11 tháng 8 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố Nguyễn Thị Diễm M về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; truy tố Nguyễn Đại D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Nguyễn Thị Diễm M phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; tuyên bố Nguyễn Đại D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điểm: s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; các Điều: 38, 50, 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị Diễm M: Từ 12 năm 06 tháng tù đến 13 năm tù. Tổng hợp hình phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại bản án số: 57/2019/HSST ngày 21/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố P, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung. Phạt tiền đối với bị cáo: Từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều: 38, 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Đại D: Từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù. Phạt tiền đối với bị cáo: Từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 cân tiểu ly và 01 thẻ sim số điện thoại 0931182335 thu của bị cáo M.

Trả lại cho bị cáo M 01 điện thoại di động hiệu Redmi kèm 02 thẻ sim số điện thoại 0938736424 và 0965537824.

Trả lại cho bị cáo D 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh kèm theo thẻ sim số điện thoại 0973238379 và 5.000.000 đồng.

Tch thu, nộp ngân sách nhà nước: 400.000 đồng thu của bị cáo M, do thu lợi bất chính mà có; 01 điện thoại Nokia màu vàng, là công cụ, phương tiện phạm tội.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; bị cáo cung cấp đều hợp pháp.

[3] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của các bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 25/4/2021, Nguyễn Thị Diễm M đã mua 16 gói ma túy đá (gồm 09 gói lớn, 07 gói nhỏ) và một cân tiểu ly, với tổng giá tiền là: 15.000.000 đồng của đối tượng tên Minh ở thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Số ma túy này, M cất giấu tại phòng trọ của M ở hẻm 30 đường L, tổ 06, phường H, thành phố P, mục đích để bán lại kiếm lời với giá 400.000 đồng/01gói nhỏ và 2.000.000 đồng/01 gói lớn. Ngày 27/4/2021, vào lúc khoảng 11 giờ 30 phút, Nguyễn Đại D đã đến mua của M 01 gói ma túy loại nhỏ với giá 400.000 đồng nhằm mục đích sử dụng. Khi M và D vừa thực hiện việc mua bán ma túy xong thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an tỉnh gia Lai phối hợp với lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P bắt quả tang cùng vật chứng và đã tiến hành khám xét tại nơi ở của M, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ tổng số gồm: 16 gói nilon có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng 01 cân tiểu ly để M phân chia ma túy; 400.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mà M đã bán ma túy cho Nguyễn Đại D cùng 01 điện thoại di động hiệu Nokia kèm sim số mà M đã sử dụng vào việc liên lạc mua bán trái phép chất ma túy.

Kết quả giám định đã kết luận: 16 gói nilon có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, loại Methamphetamine, có tổng khối lượng 29,604 gam. Trong đó, gói ma túy mà M đã bán cho Nguyễn Đại D có khối lượng 0,3466 gam Methamphetamine.

[4] Bị cáo Nguyễn Thị Diễm M thực hiện hành vi tàng trữ 29,604 gam chất ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích bán lại kiếm lời; bị cáo Nguyễn Đại D thực hiện Hành vi mua, tàng trữ 0,3466 gam chất ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an xã hội và làm gia tăng tội phạm tại địa phương.

Khi thực hiện hành vi mua bán ma túy, tàng trữ trái phép chất ma túy, các bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Từ những nhận định tại các luận điểm từ [1] đến [4] như đã nêu trên, đã có đủ căn cứ tuyên bố: Nguyễn Thị Diễm M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự; Nguyễn Đại D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Khi lượng ma túy do bị cáo M mua về bán kiếm lời có khối lượng 29,604 gam chất ma túy loại Methamphetamine, là tình tiết định khung tăng nặng và bị xét xử ở điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Đại D không có tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự nên bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[6] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

-Đối với bị cáo Nguyễn Thị Diễm M: Ngày 21/6/2019, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tại Bản án số: 57/20219/HS-ST, được hoãn thi hành án, vì đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Theo đó, bị cáo Nguyễn Thị Diễm M đã bị kết án về tội nghiêm trọng, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, là tái phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, bị cáo M còn có nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 25/7/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tại bản án số: 101/2014/HS-ST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 31/5/2015. Ngày 06/5/2021, bị khởi tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, vì đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Ngày 13/5/2021, thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị khởi tố ngày 02/6/2021(hành vi này bị xử lý ở một vụ án khác).

-Đối với bị cáo Nguyễn Đại D: Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng nhân thân xấu: Ngày 07/7/2003, bị Tòa án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm tuyên phạt 02 năm tù về tội “Cướp tài sản”, tại Bản án số:

508/2003/HSPT, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 01/9/2004(đã được xóa án tích). Ngày 06/5/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại Bản án số: 44/2008/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 30/6/2008(đã được xóa án tích). Ngày 05/4/2013, bị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, ti bản án số:

20/2013/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/8/2013 (đã được xóa án ch).

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ những căn cứ nêu trên, cần thiết phải xử phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của từng bị cáo đã gây ra, và phù hợp đánh giá của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay. Việc áp dụng hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, giáo dục, nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo được tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn, cần thiết phải phạt tiền đối với các bị cáo, tương ứng mức độ hành vi của từng bị cáo.

[8] Xử lý vật chứng: Khối lượng ma túy còn lại sau giám định, là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 cân tiểu ly và 01 thẻ sim số điện thoại 0931182335 thu của bị cáo M, là vật chứng không có giá trị nên tuyên tịch thu và tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo M 01 điện thoại di động hiệu Redmi kèm 02 thẻ sim số điện thoại 0938736424 và 0965537824; trả lại cho bị cáo D 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh kèm theo thẻ sim số điện thoại 0973238379 và 5.000.000 đồng. Vì những tài sản trên không liên quan đến tội phạm.

Tch thu, nộp ngân sách nhà nước: 400.000 đồng, do bị cáo M bán ma túy cho bị cáo D, là tiền thu lợi bất chính mà có; 01 điện thoại Nokia màu vàng của bị cáo M, là công cụ, phương tiện sử dụng vào phạm tội.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo: Nguyễn Thị Diễm M và Nguyễn Đại D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Xem xét các hành vi có liên quan: Qúa trình điều tra không xác định đối tượng tên Minh đã bán ma túy cho M nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Thị Diễm M(tên gọi khác: M Dĩnh) phạm tội“Mua bán trái phép chất ma túy”; Nguyễn Đại D(tên gọi khác: Rớt) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

-Áp dụng điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; các Điều: 38, 50, 56 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Diễm M(tên gọi khác: M Dĩnh) 12(mười hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt 03(ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tại Bản án số: 57/2019/HSST ngày 21/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung của hai bản án là: 15(mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 6 năm 2021.

Phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Thị Diễm M: 7.000.000(bảy triệu) đồng sung vào ngân sách nhà nước.

-Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều: 38, 50 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đại D(tên gọi khác: Rớt) 02(hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27 tháng 4 năm 2021.

Phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Đại D: 5.000.000(năm triệu) đồng sung vào ngân sách nhà nước.

-Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

-Áp dụng các Điều: 46, 47 của Bộ luật Hình sự;

Tch thu và tiêu hủy: Khối lượng ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định trong 03 bì công văn niêm phong ghi số: 307/PC09 ngày 05/5/2021, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai; 01 cân tiểu ly điện tử màu đen, nhãn hiệu Am Pưt; 01 thẻ sim số điện thoại 0931182335.

Tch thu, nộp ngân sách nhà nước: 400.000(bằng chữ: Bốn trăm nghìn) đồng; 01 điện thoại Nokia màu vàng.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Diễm M: 01 điện thoại di động hiệu Redmi kèm 02 thẻ sim số điện thoại 0938736424 và 0965537824.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đại D: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu xanh kèm theo thẻ sim số điện thoại 0973238379; 5.000.000(bằng chữ: Năm triệu) đồng.

Vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19 tháng 8 năm 2021, giữa Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

-Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo: Nguyễn Thị Diễm M và Nguyễn Đại D, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách nhà nước.

-Căn cứ vào các Điều: 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Báo cho: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án là ngày 13 tháng 9 năm 2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

722
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2021/HSST

Số hiệu:99/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về