Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh HB xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 20/2022/TLST - HS ngày 18 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Duy L, sinh năm 1977 tại HB; giới tính: Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 1, phường ĐT, TP HB, tỉnh HB. Nơi cư trú: Tổ 9, phường TL, TP HB, tỉnh HB; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Nguyễn Duy B, sinh năm 1954; con bà Đinh Thị T, sinh năm 1956; có vợ là Vũ Thị Mai H, sinh năm 1987 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2002 và con nhỏ nhất sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 29/10/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố HB - xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số 122/2013/HSST.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh HB cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Quang H, sinh năm 1988 tại HB; giới tính: Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tiểu khu 3, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh HB. Nơi cư trú: xóm BL, xã ĐT, huyện MC, tỉnh HB; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: 12/12, con ông Phạm Chí H (đã chết), con bà Bùi Thị M, sinh năm 1962; vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 22/10/2010 bị Công an phường Mỗ Lao, quận Hà Đông xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 27/5/2015 bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo bản án số 114/2015/HSST.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh HB cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Quang H: Luật sư Trần Dũng T - Văn phòng Luật sư Trần Dũng Tiến thuộc Đoàn luật sư tỉnh HB. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Đinh Trà L, sinh năm 1974; nơi cư trú: Tổ 1, phường HN, TP HB, tỉnh HB. Có mặt.

Ông Nguyễn Đức M, sinh năm 1972; nơi cư trú: Tổ 1, phường HN, TP HB, tỉnh HB. Vắng mặt

- Người làm chứng: Bà Vũ Thị Mai H, sinh năm 1987 Nơi cư trú: Tổ 9, phường TL, thành phố HB, tỉnh HB. Có mặt.

Bà Triệu Thị T, sinh năm 1984; nơi cư trú: xóm Bò Liêm, xã ĐT, huyện MC, tỉnh HB. Vắng mặt

Bà Hoàng Thị S, sinh năm: 1974; nơi cư trú: bản Co Chàm, xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Ông Phạm Văn T, sinh năm: 1972; nơi cư trú: bản Co Chàm, xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Duy L và Phạm Quang H có quen biết với nhau từ trước do cùng là người sử dụng chất ma túy. Khoảng tháng 7 năm 2021, H đi vào xóm Hang kia, xã Hang Kia, huyện MC, tỉnh HB chơi thì đã gặp và quen một người đàn ông dân tộc Mông tự giới thiệu tên là Páo, trú ở xã Hang Kia, huyện MC. Qua trao đổi H biết Páo có ma túy để bán nên đã hỏi mua của Páo 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) Heroine và đã sử dụng hết số ma túy này. Đồng thời Páo nói với H nếu có ai muốn mua ma túy thì giới thiệu mua của Páo, Páo bán được sẽ cho H ma túy để sử dụng, H đồng ý.

Cũng trong tháng 7 năm 2021, Nguyễn Duy L đi lên huyện MC, tỉnh HB gặp H. L hỏi H biết chỗ nào bán ma túy thì bảo cho L, H đồng ý và đưa L vào nhà Páo. Khi đến nhà Páo, H giới thiệu L với Páo, sau đó đứng ở ngoài còn L và Páo đi vào trong nhà. Tại đây L hỏi Páo có ma túy đá thì bán cho L, Páo bảo để Páo xem đã, có gì sẽ báo sau. L đồng ý và cho Páo số điện thoại của L để liên lạc rồi cùng H đi về.

Sáng ngày 17/9/2021 Páo gọi điện cho L nói là đã có ma túy, hỏi L muốn mua bao nhiêu, L nói muốn mua 24.000.000đ (Hai mươi tư triệu đồng) và bảo Páo là sẽ chuyển tiền mua ma túy cho H để H đưa cho Páo, Páo đồng ý. Sau đó L gọi điện cho H, bảo sẽ chuyển 24.000.000đ (hai mươi tư triệu đồng) vào tài khoản của H, để H chuyển cho Páo mua ma túy. Vì trước đó Páo và H đã thống nhất với nhau là sau khi Páo bán được ma túy sẽ trả công cho H bằng cách cho H ma túy để sử dụng nên H đồng ý. Sau đó L nói với vợ mình là Vũ Thị Mai H1 chuyển khoản cho H số tiền 24 triệu đồng để nhờ H mua chó hộ. H1 đồng ý và chuyển vào tài khoản của H số tiền trên.

Sáng ngày 18/9/2021 H đi xe máy một mình đến nhà chị Hoàng Thị S và anh Phạm Văn T ở bản Co Chàm, Lóng Luông, Vân Hồ, SL là người làm dịch vụ chuyển nhận tiền và sửa chữa điện thoại. H đã chuyển khoản số tiền 17.000.000đ (mười bảy triệu đồng) cho chị S để rút tiền mặt và lấy thêm 7.000.000đ (bảy triệu đồng) tiền mặt của H gộp vào tổng là 24.000.000đ (hai mươi tư triệu đồng). Sau đó H đi xe máy một mình đến nhà Páo đưa số tiền này cho Páo và nói là tiền của L chuyển để mua ma túy đá của Páo. Páo cầm tiền và bảo H là Páo sẽ giao ma túy cho L tại khu vực rừng già, MC, HB. Sau đó Páo cho H 05 viên ma túy tổng hợp và một ít Heroine, H sử dụng tại đó hết số ma túy này rồi đi về.

Sau khi nhận được điện thoại của Páo bảo lên lấy ma túy, L một mình đi xe khách tuyến Hà Nội, Sơn La từ thành phố HB lên đến khu vực rừng già, MC, HB thì xuống xe. L đứng đó một lúc thì thấy một người đàn ông (L không quen biết và không nhớ đặc điểm nhận dạng) đi từ trên đồi xuống gần chỗ L đứng ở bên phải đường, hướng HB đi Sơn La. Lúc đó người đàn ông này đưa cho L 01 bọc nilon màu đen, L hiểu bên trong là ma túy Páo chuyển nên cầm lấy giấu vào túi quần rồi đi xe khách về thành phố HB.

Khi về đến chỗ ở tại tổ 9, phường TL, thành phố HB, tỉnh HB, L mở bọc nilon ra xem thì thấy bên trong có ma túy đá và hồng phiến (L hiểu số hồng phiến là được cho thêm). L gọi điện báo cho H là đã nhận được ma túy của Páo. Sau đó L lấy cân điện tử ra để cân lại số ma túy này và lấy một ít ra sử dụng, đồng thời trích ra một số gói nhỏ để trên xe ôtô biển số: 28C-064.24 do L mượn của bạn là Nguyễn Đức M, sinh năm 1972, trú tại: tổ 1, phường HN, thành phố HB, tỉnh HB, số ma túy đá còn lại L cất giấu tại chỗ ở tại tổ 9, phường TL, thành phố HB, tỉnh HB.

Ngày 22/9/2021 tại khu vực tổ 5, phường TN, thành phố HB, tỉnh HB, khi Nguyễn Duy L đang điều khiển xe ôtô biển số: 28C-064.24 thì bị phát hiện bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ: 01 (một) hộp đứng kính bên trong có: 01 (một) gói nilon bên trong chứa các chất tinh thể màu trắng và 01 (một) gói nilon bên trong chứa bốn viên nén màu hồng; 01 (vỏ) bao thuốc lá Thăng L màu vàng bên trong có: 04 (bốn) gói nilon trong các gói đều chứa chất tinh thể màu trắng và 01 (một) gói nilon bên trong chứa các viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng. Tổ công tác đã đưa L cùng phương tiện, đồ vật tài liệu có liên quan về trụ sở lập biên bản theo quy định. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra (PC04) - Công an tỉnh HB đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Duy L tại tổ 9, phường TL, thành phố HB, tỉnh HB và thu giữ 01 (một) gói nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Nguyễn Duy L khai nhận các chất tinh thể màu trắng là ma túy đá, các viên nén màu hồng là ma túy tổng hợp, L nhờ Phạm Quang H chuyển tiền cho người đàn ông tên Páo ở xã Hang Kia, huyện MC, tỉnh HB để mua về sử dụng.

Ngày 29/9/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra (PC04) - Công an tỉnh HB thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Quang H tại: xã Bò Liêm, xã ĐT, huyện MC, tỉnh HB. Phát hiện: 01 (một) gói giấy bạc bên trong chứa 02 (hai) viên nén màu xanh, 01 (một) gói giấy bạc trên trong chứa 04 (bốn) viên nén, 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng L bên trong có: một túi nilon chứa 23 (hai mươi ba) viên nén, 01 (một) gói nilon bên trong chứa chất bột màu hồng và 01 (một) gói bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng.

Phạm Quang H khai nhận các viên nén, chất bột màu hồng, chất bột dạng cục màu trắng là ma túy tổng hợp và Heroine H mua của người đàn ông tên Páo về để sử dụng cho bản thân. Cụ thể: Ngày 26/9/2021, Phạm Quang H một mình đi xe máy đến nhà Páo ở xã Hang Kia, huyện MC, tỉnh HB (là người đã bán ma túy cho Nguyễn Duy L) và mua của Páo 30 viên ma túy tổng hợp cùng một ít Heroine với giá 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng). Sau đó H mang về chỗ ở tại xóm Bò Liêm, xã ĐT, huyện MC, tỉnh HB (là nơi H đang sinh sống như vợ chồng với Triệu Thị T) sử dụng hết một viên ma túy tổng hợp và một ít Heroine. Số ma túy còn lại H chia thành nhiều gói nhỏ cất giấu trong nhà, ngoài vườn tại nơi ở để sử dụng dần và không nói cho ai biết.

Bản kết luận giám định số 283/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 30/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HB, kết luận: (Bút lục 140, 141) - Các viên nén màu hồng trong 02 gói ký hiện 01 và 07 trong Phong bì niêm phong một mặt ghi “Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Duy L; SN: 1977; Nơi cư trú: tổ 01, phường Đồng Tiến, TP HB, HB tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 22/9/2021 tại P. TL, TP HB” có tổng khối lượng 0,59g (không phẩy năm mươi chín gam), là ma túy, loại Methamphetamine.

- Chất dạng tinh thể màu trắng trong 06 gói ký hiệu 02, 03, 04, 05, 06 và 07 trong phong bì niêm phong một mặt ghi “Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Duy L; SN: 1977; Nơi cư trú: tổ 1, phường Đồng Tiến, TP HB, HB tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 22/9/2021 tại P. TL, TP HB” có tổng khối lượng 7,31g (bảy phẩy ba mươi mốt gam), là ma túy, loại Methamphetamine.

- Chất dạng tinh thể màu trắng trong hộp niêm phong một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Duy L; Sinh năm: 1977; Chỗ ở: số nhà 6, tổ 9, phường TL, TP HB, tỉnh HB ngày 22/9/2021” có khối lượng 90,17g (chín mươi phẩy mười bảy gam), là ma túy, loại Methamphetamine.

Methamphetamine nằm trong danh mục II, số thứ tự: 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản kết luận giám định số 289/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 06/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HB, kết luận: (bút lục 142, 143) - 03 viên nén màu hồng trong Phong bì 02 một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Phạm Quang H tại xóm Bò Liêm, ĐT, MC, HB ngày 29/9/2021” có tổng khối lượng 0,27g (không phẩy hai mươi bảy gam), là ma túy, loại Methamphetamine.

- 22 viên nén màu hồng trong Phong bì 03 một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Phạm Quang H tại xóm Bò Liêm, ĐT, MC, HB ngày 29/9/2021” có tổng khối lượng 2,18g (hai phẩy mười tám gam), là ma túy, loại Methamphetamine.

- Chất bột màu hồng trong Phong bì 04 một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Phạm Quang H tại xóm Bò Liêm, ĐT, MC, HB ngày 29/9/2021” có khối lượng 0,04g (không phẩy không bốn gam), là ma túy loại Methamphetamine.

Methamphetamine nằm trong danh mục II, số thứ tự: 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ - Chất bột màu trắng trong Phong bì 04 một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Phạm Quang H tại xóm Bò Liêm, ĐT, MC, HB ngày 29/9/2021” có khối lượng 0,95g (không phẩy chín mươi lăm gam), là ma túy, loại Heroine.

Heroine nằm trong danh mục I, số thứ tự: 09; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

- 02 viên nén màu xanh trong Phong bì 01 một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Phạm Quang H tại xóm Bò Liêm, xã ĐT, huyện MC, tỉnh HB ngày 29/9/2021” có tổng khối lượng 0,19g (không phẩy mười chín gam).

- Viên nén màu xanh trong Phong bì 02 một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Phạm Quang H tại xóm Bò Liêm, ĐT, MC, HB ngày 29/9/2021” có khối lượng 0,10g (không phẩy một gam).

- Viên nén màu xanh trong Phong bì 03 một mặt ghi “Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Phạm Quang H tại xóm Bò Liêm, ĐT, MC, HB ngày 29/9/2021” có khối lượng 0,11g (không phẩy mười một gam).

Các Viên nén màu xanh trong Phong bì 01, 02, 03 có thành phần phức tạp, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HB không đủ điều kiện giám định. Đề nghị chuyển cơ quan giám định cấp trên.

Tại bản kết luận giám định số 9420/C09-TT2, ngày 05/01/2022 của Viện H1 học hình sự Bộ Công an, kết luận: (bút lục 144) - Mẫu mảnh viên nén màu xanh trong các túi nilon kí hiệu Phong bì 01 và Phong bì 03 gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine.

- Mẫu mảnh viên nén màu xanh trong túi nilon ký hiệu Phong bì 02 gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine, Heroine.

Vật chứng vụ án:

- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh HB (PC-04) đã thu giữ toàn bộ số ma túy nêu trên. 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Duy L; 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Duy L; 01 hộp đựng kính; 01 cân điện tử màu đen có chữ DIGITAL SCALE; 01 điện thoại di động màu đen mặt sau ghi chữ SAM SUNG, đã qua sử dụng, bên trong có 01 sim Viettel thu giữ của Nguyễn Duy L; 01 điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ Iphone bên trong có một sim Vinaphone thu giữ của Phạm Quang H; 01 điện thoại di động màu đen có chữ NOKIA bên trong có một sim Viettel thu của Phạm Quang H.

- 01 xe ô tô, Biển kiểm soát: 28C - 064.24 và các giấy tờ liên quan đến xe, Cơ quan cảnh sát điều tra (PC04) - Công an tỉnh HB đã ra Quyết định xử L vật chứng bằng hình thức trả lại cho bà Đinh Trà L là chủ sở hữu hợp pháp.

Bản cáo trạng số 26/CT-VKS-P1, ngày 17/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh HB đã truy tố bị can Nguyễn Duy L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015; Truy tố bị can Phạm Quang H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 251, Bộ luật Hình sự 2015 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 249, Bộ luật hình sự 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh HB giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố của Viện kiểm sát nhân dân dân tỉnh HB; phân tích tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi do các bị cáo thực hiện, nhân thân của các bị cáo, tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b, khoản 3, Điều 249; Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Duy L từ 13 năm đến 14 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Căn cứ điểm b, khoản 3, Điều 251; điểm i, khoản 1, Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Phạm Quang H từ 16 năm đến 17 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; từ 02 năm đến 03 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt của hai tội từ 17 năm đến 18 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Duy L, Phạm Quang H;

Về vật chứng: Đề nghị căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu để tiêu hủy toàn bộ số ma tuý hoàn lại sau giám định; trả lại cho Nguyễn Duy L 01 giấy phép lái xe, 01 căn cước công dân; Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 hộp đựng kính, 01 cân điện tử, 01 điện thoại di động màu đen mặt sau ghi chữ SAM SUNG, đã qua sử dụng, bên trong có 01 sim Viettel đã thu giữ của Nguyễn Duy L; Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ Iphone bên trong có 01 sim Vinaphone đã thu giữ của Phạm Quang H; Trả lại cho Phạm Quang H 01 điện thoại di động màu đen có chữ NOKIA bên trong có 01 sim Viettel.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Quang H trình bày: nhất trí với cáo trạng truy tố bị cáo Phạm Quang H về tội danh, điều luật, khoản truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bố bị cáo H có tham gia quân đội và được nước CHDCND Lào tặng bằng khen được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo Nguyễn Duy L trình bày: Ngày 22/9/2021, bị cáo bị bắt quả tang khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 98,07gam ma túy loại Methamphetamine. Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng mong Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo Phạm Quang H khai nhận: Ngày 18/9/2021, bị cáo đã thực hiện hành mua bán trái phép 98,07gam ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Duy L và có hành vi tàng giữ 3,84 gam ma túy loại Methamphetamine và Heroine. Bị cáo rất ân hận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đinh Trà L trình bày: Tôi có cho anh Nguyễn Đức M, trú tại Tổ 1, phường HN, TP HB, tỉnh HB mượn xe ô tô bán tải biển số 28C - 064.24 thời gian mượn chỉ có 1 đến 2 ngày, sau đó anh M lại cho Nguyễn Duy L mượn xe và bị cơ quan công an bắt giữ, tôi không biết gì về hành vi phạm tội của L. Quá trình làm việc tại cơ quan cảnh sát điều tra tôi đã được trả lại chiếc xe ôtô trên, nay tôi đề nghị Hội đồng xét xử yêu cầu anh Nguyễn Đức M trả cho tôi số tiền 52.000.000đ, là số tiền thiệt hại mất thu nhập và sửa chữa khi xe ôtô mang biển kiểm soát 28C - 064.24 của tội bị Cơ quan Công an tạm giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh HB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh HB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với xe ô tô biển kiểm soát 28C - 064.24 qua kiểm tra xác M không có tranh chấp, chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe là bà Đinh Trà L không biết hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Duy L, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh HB (PC04) đã ra quyết định trả lại chiếc xe cho bà Đinh Trà L đúng quy định.

[2]. Về hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[2.1].Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Duy L và Phạm Quang H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể: Ngày 22/9/2021, Nguyễn Duy L bị bắt quả tang khi thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép 98,07 gam ma túy loại Methamphetamine. Quá trình lấy lời khai của bị cáo L, được biết ngày 18/9/202, Phạm Quang H đã thực hiện hành vi Mua bán trái phép 98,07gam ma túy trên cho Nguyễn Duy L. Ngoài ra, ngày 29/9/2021 khi thực hiện khám xét chỗ ở của H còn thu thu giữ 3,84 gam ma túy loại Methamphetamine và Heroine. Lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Duy L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 249, Bộ luật hình sự năm 2015 và Phạm Quang H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b, khoản 3, Điều 251, Bộ luật hình sự năm 2015 và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm i, khoản 1, Điều 249, Bộ luật hình sự năm 2015. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh HB đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2]. Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Duy L và Phạm Quang H là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến quyền quản L độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã từng bị kết án về các tội liên quan đến ma túy, biết rõ việc Nhà nước cấm mọi hành vi liên quan đến ma túy, song bị cáo Nguyễn Duy L vì mục đích sử dụng cho bản thân và bị cáo Phạm Quang H vì hám lời và vì mục đích sử dụng cho bản thân nên các bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội là thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần thiết pH áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Nguyễn Duy L và Phạm Quang H cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để trừng trị các bị cáo và phòng ngừa chung.

[2.3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo L và H đều có nhân thân xấu, đã từng đi chấp hành án về tội liên quan đến ma túy. Bị cáo Nguyễn Duy L bị Tòa án nhân dân thành phố HB - xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số 122/2013/HSST, ngày 29/10/2013; Bị cáo Phạm Quang H: bị Công an phường Mỗ Lao, quận Hà Đông xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 22/10/2010 và bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo bản án số 114/2015/HSST, ngày 27/5/2015.

Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo Nguyễn Duy L và Phạm Quang H đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; trước khi mở phiên tòa sơ thẩm bị cáo Phạm Quang H cung cấp thêm đơn xin giảm nhẹ hình phạt và giấy chứng nhận có bố có tham gia quân ngũ tại nước Lào được tặng bằng khen được quy định tại khoản 2, Điều 51 cần xem xét khi lượng hình.

[2.4]. Trong vụ án này, một số cá nhân có liên quan. Hội đồng xét xử xét thấy:

Đối với Triệu Thị T, Vũ Thị Mai H1, Hoàng Thị S, Phạm Văn T, Nguyễn Đức M, Đinh Trà L không biết và cũng không liên quan đến hành vi phạm tội của Nguyễn Duy L và Phạm Quang H nên không đề cập xử lý.

Đối với người đàn ông đưa ma túy cho Nguyễn Duy L, do không có đủ căn cứ xác định nhân thân, lai lịch nên không đề cập xử lý.

Đối với người đàn ông tên Tiến mà Phạm Quang H khai đã cùng Nguyễn Duy L vào nhà Páo, do chỉ có lời khai của H về người này, Cơ quan điều tra đã xác M theo miêu tả của H nhưng không có người nào có đặc điểm như vậy, do đó không đề cập xử lý.

Đối với người đàn ông tên Páo ở xã Hang Kia, huyện MC, tỉnh HB cơ quan điều tra đã tiến hành xác M, không có người nào có đặc điểm giống như L và H miêu tả, xác M tại Tổng công ty hạ tầng mạng (VNPT-NET) kết quả số thuê bao 0886302686 (là số điện thoại L và H khai Páo liên lạc qua zalo bằng số điện thoại trên) mang tên Phạm Quang H nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra để xử L theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Đinh Trà L yêu cầu ông Nguyễn Đức M phải bồi thường số tiền 52.000.000đ do mất thu nhập và sửa chữa xe vì xe bị cơ quan công an tạm giữ, Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên Tòa ông M không có mặt để trình bày ý kiến, trong quá trình giải quyết vụ án tại cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và trước khi mở phiên tòa bà L không có ý kiến gì về yêu cầu đòi bồi thường, tại phiên tòa bà mới đưa ra yêu cầu vì vậy việc giải quyết yêu cầu ngay tại phiên tòa hôm nay là chưa đủ cơ sở; mặt khác yêu cầu của bà cũng không làm ảnh hưởng đến tội danh cũng như hình phạt đối với các bị cáo vì vậy nhận thấy cần dành cho bà Đinh Trà L quyền khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác cũng đảm bảo cho bà thực hiện được quyền của mình.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Xét Bị cáo Nguyễn Duy L và Phạm Quang H có hoàn cảnh khó khăn, không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về xử L vật chứng vụ án:

Đối với số lượng ma túy hoàn lại sau giám định: Xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với tang vật thu giữ của Nguyễn Duy L là 01 hộp đựng kính, 01 cân điện tử màu đen có chữ DIGITAL SCALE, 01 điện thoại di động màu đen mặt sau ghi chữ SAM SUNG, xét thấy đây là tang vật liên quan đến tội phạm cần pH tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ Iphone bên trong có 01 sim Vinaphone thu giữ của Phạm Quang H, xét thấy điện thoại và sim Vinaphone trên bị cáo H dùng để liên lạc khi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Duy L: 01 giấy phép lái xe, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Duy L và trả lại cho bị cáo Phạm Quang H: 01 điện thoại di động màu đen có chữ NOKIA bên trong có 01 sim Viettel vì đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo L cũng như điện thoại của bị cáo H không liên quan đến tội phạm.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy L và Phạm Quang H mỗi bị cáo pH nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bị cáo Phạm Quang H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Căn cứ: điểm b, khoản 3, Điều 249, Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Duy L 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/9/2021.

Căn cứ: điểm b khoản 3, Điều 251; điểm i khoản 1, Điều 249, Điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Phạm Quang H 16 (mười sáu) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, 02 (hai) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổng hợp cả hai hình phạt 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29/9/2021 2. Về xử lý vật chứng vụ án: p dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy hoàn lại sau giám định trong:

- 01 (một) phong bì niêm phong dán kín, một mặt có ghi: Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ: Phạm Quang H, sinh năm 1988 - phạm tội về ma túy, xảy ra ngày 29/9/2021 tại xã ĐT, huyện MC, tỉnh HB. 03 mẫu ma túy, loại Methamphetamine (Phong bì 02: 0,18g; Phong bì 03: 1,68g; Phong bì 04: 0,02g); 01 mẫu ma túy; loại Heroine (phong bì 04: 0,55g). Trên các mép dán có dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh HB cùng chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong (một số dấu mờ nhòe không rõ nét).

- 01 (một) hộp niêm phong dán kín còn nguyên v n, một mặt đề chữ: “Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ: Nguyễn Duy L, sinh năm 1977 - Phạm tội về ma túy, xảy ra ngày 22/9/2021 tại phường TL, thành phố HB, tỉnh HB. 09 mẫu ma túy, loại Methamphetamine (Phong bì: 01: 0,32g; 02: 0,58g; 03: 1,55g; 04: 1,67g; 05:0,68g; 06: 1,61g; 07: Tinh thể: 0,06g; Viên nén: 0,11g; Hộp: 88,26g). Trên các mép dán có dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh HB cùng chữ ký Bùi Ngọc Trang, Đỗ Thành Công tham gia niêm phong (một số dấu mờ nhòe không rõ nét).

- 01(một) Phong bì niêm phong dán kín còn nguyên v n. Mặt trước đề chữ “Viện kH1 học hình sự - Bộ Công an số 9420/C09 (T22); Kính gửi: Cơ quan CSĐT công an tỉnh HB; Mẫu vật hoàn lại sau giám định. Mặt sau đóng dấu tròn đỏ niêm phong của Viện KH1 học hình sự Bộ công an và chữ ký Bùi Văn Son, Phạm Đức Trọng tham gia niêm phong (một số dấu mờ nhòe không rõ nét) Tịch thu sung ngân sách nhà nước:

- 01 (một) hộp đựng kính cũ đã qua sử dụng - 01 (một) cân điện tử màu đen có chữ DIGITAL SCALE.

- 01 (một) điện thoại di động màu đen có chữ SAM SUNG, bên trong có 01 (một) sim Viettel thu giữ của Nguyễn Duy L.

- 01 (một) điện thoại di động màu đen, mặt sau có chữ Iphone bên trong có 01 sim Vinaphone thu giữ của Phạm Quang H.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Duy L:

- 01(một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Duy L - 01 (một) căn cước công dân mang tên Nguyễn Duy L Trả lại cho bị cáo Phạm Quang H:

- 01 (một) điện thoại di động màu đen có chữ NOKIA bên trong có một sim Viettel.

(Chi tiết vật chứng được thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 40/BB - GNVC, ngày 29/6/2022 giữa Cơ quan ảnh sát điều tra Công an tỉnh HB và Cục thi hành án dân sự tỉnh HB.) 3. Giành quyền khởi kiện cho bà Đinh Trà L về việc yêu cầu ông Nguyễn Đức M pH bồi thường thiệt hại do xe ô tô biển kiểm soát 28C - 064.24 bị cơ quan công an tạm giữ.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/122016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản L và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Các bị cáo Nguyễn Duy L, Phạm Quang H mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Toà án nhân dân Cấp cao xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về