Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 11/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Lô Thị L; tên gọi khác: Không; sinh ngày 17/10/1989, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Bản Đ, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn : Lớp 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lô Văn H; con bà : Hà Thị P; có chồng: Hà Văn D và 02 người con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2021 đến ngày 26/01/2022 thì được tại ngoại. Có mặt.

2. Lô H: tên gọi khác: Lô Văn H; sinh ngày 04/3/1971, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Bản Đ, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Nguyên trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 4/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lô Văn T (Đã chết); con bà: Lô Thị K; có vợ: Quang Thị M và 03 người con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/7/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 20/12/2015 bị cáo đã thi hành xong hình phạt; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2021. Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo Lô Thị L và Lô H: Bà Nguyễn Thị Q, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Lô Văn Đ, sinh năm 1985; trú tại bản Đ, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 31/12/2021, Lô Thị L bán ma túy cho Lô H, với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Lô H đi về thì bị bắt quả tang. Thu 02 gói chất bột màu trắng. Cùng ngày cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Phong thi hành lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lô Thị L; thu giữ của Lô Thị L 200.000 đồng tiền bán trái phép chất ma túy.

Bản kết luận giám định số 120/KL- PC09(MT) ngày 07/01/2022 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

02 mẫu chất bột màu trắng (Ký hiệu M1,M2) thu giữ của Lô H gửi tới giám định đều là ma túy (Heroine). Số chất bột màu trắng (02 gói) thu giữ của Lô H gửi tới giám định có tổng khối lượng 0,13 g (Không phẩy mười ba gam) Tại phiên tòa các bị cáo Lô Thị L và Lô H (Lô Văn H) khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cụ thể: Ngày 31/12/2021, tại bản Đô, xã Châu Kim, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An Lô Thị L bán trái phép 0,13 gam Heroine cho Lô H với giá 200.000 đồng. Mục đích bị cáo Lô H mua Heroine là để sử dụng. Sau khi mua được ma túy Lô H bị bắt quả tang. Thu của Lô H 0,13 gam Heroine; thu của Lô Thị L 200.000 đồng tiền bán trái phép chất ma túy.

Cáo trạng số 16/CT-VKS- HS ngày 03/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lô Thị L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Lô H (Lô Văn H) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuýtheo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015.

Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Lô Thị L do không xác minh được họ tên và địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; các điểm s, n khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Lô Thị L từ 24 đến 30 tháng tù.

Đề nghị áp dụng dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt:

Bị cáo Lô H (Lô Văn H) từ 15 đến 18 tháng tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy vỏ gói ma túy; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 200.000 đồng thu giữ của Lô Thị L; miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Người bào chữa không tranh luận về tội danh; đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo Lô Thị L từ 18 đến 24 tháng tù; xử phạt bị cáo Lô H từ 12 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Mặc dù không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, nhưng ngày 31/12/2021, tại bản Đô, xã Châu Kim, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An Lô Thị L đã bán 0,13 gam Heroine cho Lô H thì bị bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Do đó bị cáo Lô Thị L đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Lô H (Lô Văn H) tàng trữ ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy, do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng; bị cáo Lô H (Lô Văn H) có nhân thân xấu. Vì vậy cần xét xử nghiêm và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội các bị cáo khai báo thành khẩn; bị cáo Lô Thị L phạm tội khi đang mang thai, nên cần giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong đề nghị xử phạt: Bị cáo Lô Thị L từ 24 đến 30 tháng tù; bị cáo Lô H (Lô Văn H) từ 15 đến 18 tháng tù. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo Lô Thị L từ 18 đến 24 tháng tù; bị cáo Lô H từ 12 đến 18 tháng tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị của người bào chữa đối với Lô H là hợp lý; đề nghị của người bào chữa đối với Lô Thị L là thấp so với số lượng ma túy bị cáo đã bán.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy, các bị cáo không có tài sản gì đáng giá. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,13 gam Heroine thu giữ của bị cáo Lô H. Cơ quan điều tra đã lấy đi giám định chất ma túy hết, còn lại vỏ gói ma túy không có giá trị, nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 200.000 đồng thu giữ của Lô Thị L, đây là tiền do phạm tội mà có, nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Các bị cáo bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Lô Thị L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Lô H (Lô Văn H) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; các điểm s, n khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Phạt Lô Thị L 30 (Ba mươi) tháng tù; được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam 31/12/2021 đến ngày 26/01/2022. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Phạt Lô H (Lô Văn H) 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 31/12/2021.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; các điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ một phong bì bên trong đựng vỏ gói ma túy, thu giữ của Lô H và vỏ bao bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Chi tiết vật chứng được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận ngày 03/3/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Phong với Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Lô Thị L, số tiền trên đang tạm giữ tại kho bạc Nhà nước huyện Quế Phong.

Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Lô Thị L và Lô H (Lô Văn H), mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo Lô Thị L và Lô H (Lô Văn H) có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy số 13/2022/HS-ST

Số hiệu:13/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về