Bản án về tội mua bán trái phép, tổ chức sử dụng trái phép và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 95/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 95/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP, TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP VÀ CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2022/TLST- HS ngày 26 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số: 42/2022/HSST-QĐ ngày 29/6/2022 đối với các bị cáo:

1. Bùi Quang H, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1993 tại Hải Dương; nơi ĐKHKTT: Đội 6, thôn Phù Tải 2, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương; nơi sinh sống: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Chủ quán Karaoke New 5 Sao; trình độ H vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Bùi N V, sinh năm 1971 và con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1970; có vợ là Đồng Thị N, sinh năm 1993; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 12/6/2021 đến ngày 17/6/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

2. Phan Thu Đ, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1986 tại Hải Dương; nơi cư trú: Đội 9, Thôn C, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ H vấn: 12/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phan Văn L, sinh năm 1954 và con bà Đồng Thị L, sinh năm1952 ; có vợ là Nguyễn Thị P (đã ly hôn), sinh năm 1991; có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 48/HSST ngày 29-11-2011 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương và xử phạt Phan Thu Đ 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”, hiện đã xóa án tích; bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021 đến ngày 17/6/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

3. Nguyễn N Y, sinh ngày 24 tháng 4 năm 1988 tại Hậu Giang; nơi ĐKHKTT: Ấp Tân Long A, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang; nơi ở: Xã, huyện C, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Nhân viên quán Karaoke New 5 Sao; trình độ H vấn: 5/12; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1964 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963; có chồng thứ nhất là Cao Chế L sinh năm 1983 (đã ly hôn), hiện sinh sống như vợ chồng với Vũ Văn Q, sinh năm 1990; có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh ngày 22/7/2020; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 28/6/2021 đến ngày 07/7/2021 áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

4. Lương Văn B, sinh ngày 29 tháng 5 năm 1986; nơi ĐKHKTT và nơi ở: thôn H, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: nhân viên quán Karaoke New 5 sao; trình độ H vấn: 10/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; c on ông: Lương Văn D, sinh năm 1953 và con bà: Phạm Thị H, sinh năm 1956; có vợ là Vũ Thị H, sinh năm 1988; có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021 đến ngày 17/6/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

5. Phạm Lê VA, sinh ngày 21 tháng 5 năm 1998; nơi ĐKHKTT và nơi ở: thôn C, xã , thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: nhân viên quán Karaoke New 5 sao; trình độ H vấn: 7/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông: Phạm Tiến Ch, sinh năm 1969 và con bà: Lê Thị D, sinh năm 1975; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 28/6/2021 đến ngày 07/7/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

6. Nguyễn Thế Đ, sinh ngày 06 tháng 8 năm 1986; nơi ĐKHKTT và nơi ở: thôn 2 xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: nhân viên quán Karaoke New 5 Sao; trình độ H vấn: 9/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thế M, sinh năm 1948 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1948; có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1984; có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 07/12/2021; có mặt.

7. Lương Văn D, sinh ngày 01 tháng 10 năm 1989;ĐKHKTT và nơi ở: thôn H, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ H vấn: 10/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lương Văn L, sinh năm 1968 và con bà Nguyễn Thị K, sinh năm1969; có vợ là Lương Thị T, sinh năm 1994 (đã ly hôn); có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2016, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021 đến ngày 17/6/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

8. Bùi Tri P, sinh ngày 16 tháng 9 năm 2000;ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Trung Hạng, xã Liên Hòa, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ H vấn: 6/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông: Bùi Tri Đ, sinh năm 1969 và con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1971; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 09/6/2021 đến ngày 17/6/2021 chuyển tạm giam.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1975; nơi cư trú: 142 tổ đường 5/2 Quán Toan, Hồng Bàng, Hải Phòng, vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Bùi Văn V; vắng mặt.

2. Chị Vũ Thị Ánh N; vắng mặt.

3. Chị Cung Y Q; vắng mặt.

4. Anh Vũ Bá H; vắng mặt.

5. Chị Đinh Phương D;vắng mặt.

6. Chị Thạch Kim Đ; vắng mặt.

7. Hoàng Thị Mỹ L; vắng mặt.

8. Chị Mai Tiểu T; vắng mặt.

9. Anh Lương Quảng L; vắng mặt.

10. Anh Vũ Văn M; vắng mặt.

11. Chị Xeo Thị L; vắng mặt.

12. Chị Nguyễn Thị Kiều V; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 01 giờ 00 ngày 09/6/2021, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra tiến hành kiểm tra quán karaoke New 5 Sao tại thôn Cách Thượng, xã Nam Sơn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng (gọi tắt là quán New 5 Sao). Quá trình kiểm tra đã phát hiện tại phòng hát VIP 5 có dấu hiệu của việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tiến hành xét nghiệm nước tiểu cho kết quả 19/29 người dương tính với các chất ma túy. Tiến hành khám xét khẩn cấp quán New 5 Sao, Cơ quan điều tra thu giữ:

- Tại phòng VIP 5 01 đĩa sứ màu trắng trên mặt đĩa có tinh thể màu trắng, qua giám định chất tinh thể màu trắng là ma túy là loại Ketamine, có khối lượng 0,6 gam;tại dưới đất cạnh bàn ở cuối phòng dãy bên phải theo hướng từ cửa vào 01 vỏ túi nilon màu trắng kích thước 2x3cm có bám dính tinh thể màu trắng qua giám định là ma túy là loại Ketamine, không đủ điều kiện xác định khối lượng ma túy bám dính;tại dưới sàn nhà cạnh loa thu giữ 01 vỏ túi nilon màu trắng kích thước 2x2cm bám dính tinh thể màu trắng qua giám định là ma túy là loại Ketamine, không đủ điều kiện xác định khối lượng ma túy bám dính và 01 vỏ túi nilon màu trắng kích thước khoảng 3x6cm;

- Tại phòng ngủ của nhân viên ở tầng 2 phía trong: 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn N Y; 01 ví da màu đen bên trong 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 4x7 cm bên trong có 02 viên nén màu xanh, trên mặt có chữ JNW qua giám định không tìm thấy thành phần chất ma túy; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Văn B thu trên giường ngủ của Lương Văn B;

Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn tạm giữ của Lương Văn B 01điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; Phan Thu Đ điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng và 3.000.000 đồng; Bùi Tri P điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng; Lương Văn D 02 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 01 mài vàng, 01 màu Xám; Nguyễn N Y 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen; của Bùi Quang H 01 điện thoại Nokia màu vàng; của Nguyễn Thế Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng và 01 điện thoại đi dộng nhãn hiệu Nokia màu nâu; của Phạm Lê VA 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng; của Vũ Bá H 01 máy chỉnh âm thanh màu đen và 01 tai nghe nhạc màu xanh.

Tiến hành khám nghiệm hiện trường toàn bộ quán Karaoke New 5 sao, thu giữ 01 dây tín hiệu màu trắng dài khoảng 3m là dây dùng để lấy tín hiệu từ điện thoại của D cho hệ thống âm thanh.

1. Hành vi Phan Thu Đ, Lương Văn D, Bùi Tri P, Nguyễn N Y, Lương Văn B bị truy tố tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng VIP 5:

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo trìn bày: Tối ngày 08/6/2021, Phan Thu Đ, Lương Văn D, Bùi Tri P gặp nhau tại một quán nước ở khu vực xã K, tỉnh Hải Dương, Đ rủ D, P đến quán New 5 Sao trên địa bàn Huyện An Dương, TP Hải Phòng để hát và sử dụng ma túy. Cả ba thống nhất nếu có nhân viên nữ sẽ cho nhân viên nữ cùng sử dụng ma túy, chi phí chia đều cho ba người. Sau khi thống nhất, Đ một mình đi đến khu vực cổng làng Đồng Hạ, xã Liên Hòa, huyện K, tỉnh Hải Dương mua của một người nam giới tên Bình 01 chỉ Ketamine (túi nhỏ) và 02 viên thuốc lắc hết 1.400.000 đồng. Mua được ma túy, Đ quay lại gặp D, P rồi cả ba thuê xe taxi chở đến quán New 5 Sao. Trên đường đi, Đ gọi điện thoại cho B và được B cho biết tối 08/6/2021 Y có tổ chức sinh nhật và có sử dụng ma túy. Đ bảo với B là sẽ đến, B hiểu là Đ sẽ đến quán New 5 Sao để sử dụng ma túy.

Đối với Nguyễn N Y, do muốn mời mọi người sử dụng ma túy trong sinh nhật của mình nên trưa ngày 08/6/2021 Y nhờ B mua giúp cho Y 07 viên thuốc lắc và 02 chỉ ma túy Ketamine để cho mọi người cùng sử dụng. B đã nhờ một người khách đang hát tại quán New 5 Sao (hiện chưa xác định được lý lịch, địa chỉ) nhờ mua hộ ma túy, thanh niên trên đồng ý và đi ra ngoài, khoảng 20 Pt thì có một nam thanh niên (hiện chưa xác định được lý lịch, địa chỉ) đến giao cho B 07 viên thuốc lắc và 02 chỉ ma túy Ketamine. B đã ứng tiền của B ra trả cho người thanh niên trên 5.000.000 đồng, hiện Y chưa trả số tiền trên cho B.

Đến khoảng 22 giờ 30 Pt cùng ngày, khi B đang ở dưới tầng 1 quán New 5 Sao cùng với Bùi Quang H, Nguyễn N Y, Phạm Lê VA thì nhóm Đ đến, VA ra mở cửa cho nhóm Đ, D, P vào quán. Một lần nữa B nói với Đ về việc Y sẽ tổ chức sinh nhật và có sử dụng ma túy. B đề nghị với Đ nhập nhóm của Y vào nhóm của Đ tại phòng hát của Đ cho vui, kể từ lúc nhập hai nhóm sẽ chia đôi tiền Phòng, vắng mặt. Đ đồng ý.

Nhóm Đ, D, P được bố trí lên phòng VIP 5 và gọi thêm 3 nhân viên nữ là Cung Y Q, Vũ Thị Ánh N, Đinh Phương D để phục vụ phòng và sử dụng ma túy cùng. Sau khi Q, N và Dung lên phòng thì nhóm Đ bắt đầu nghe nhạc mạnh và sử dụng ma túy, D đưa P điện thoại để P kết nối với loa của phòng hát. Tại phòng VIP 5, Đ đưa P 02 viên thuốc lắc nhờ P bẻ thành 04 nửa viên rồi đưa lại cho Đ. Đ đưa cho D ½ viên thuốc lắc, đưa cho Q ½ viên thuốc lắc để sử dụng còn 02 nửa viên Đ đưa cho P. P cầm thuốc lắc do Đ đưa rồi sử dụng ¾ viên và đưa ¼ viên còn lại cho Dung để Dung sử dụng nhưng Dung không sử dụng và đặt lại trên mặt bàn. Sau này ¼ viên thuốc lắc trên Cơ quan điều tra không thu giữ được. Đ nhờ Q dùng điện thoại soi đèn rồi đổ Ketamine ra đĩa sứ và dùng thẻ nhựa (đĩa và thẻ có sẵn trên bàn) đánh mịn ma túy Ketamine để mọi người sử dụng. D đưa Dung 01 tờ tiền 10.000 đồng, P đưa Dung vỏ điếu thuốc lá để Dung quấn thành ống hút. Sau khi đánh Ketamine xong thì Đ sử dụng đầu tiên rồi đưa cho Q sử dụng. Sau khi Q sử dụng xong, D nhờ Q kẻ ma túy Ketamine cho D sử dụng. Sau đó, D mời N sử dụng ma túy Ketamine.

Khoảng 00 giờ ngày 09/6/2021, như đã thống nhất với Đ, Y cùng B, Vũ Bá H, Thạch Kim Đ; Hoàng Thị Mỹ L; Mai Tiểu T, sinh năm: 2002, trú tại: khóm 13, phường Láng Tròn, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu; Lương Quang L, Vũ Văn M, Xeo Thị L; Nguyễn Thị Kiều V, Nguyễn Phi Nh lên phòng VIP 5 nhập với nhóm của Đ để tổ chức sinh nhật Y. Tại phòng VIP 5, B đã đưa thuốc lắc cho Hưng, Minh, Đào, Lợi, Vi sử dụng, sau đó B lấy một viên thuốc lắc bẻ đôi và sử dụng một nửa, nửa viên còn lại B đưa vào miệng của Y để Y sử dụng. Sau đó B đổ túi Ketamine ra đĩa để Đ đánh Ketamine cho mọi người sử dụng còn B đi xuống dưới tầng 1 mở cửa cho khách về. Khi quay lại, B đã lấy đĩa Ketamine đưa cho Hưng, Long, Minh, Vi, P sử dụng. Các đối tượng sử dụng ma túy đến 01 giờ 00 ngày 09/6/2021 thì bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

Tại thời điểm kiểm tra, bắt quả tang, Cơ quan điều tra phát hiện trong phòng VIP 5, có 19 người/29 người dương tính với chất ma túy, gồm: Phan Thu Đ và Vũ Thị Ánh N, sinh ngày 05/12/2007, nơi cư trú: thôn 1, xã Hoa Động, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng dương tính với ma túy Ketamine; Đồng Văn H, sinh năm 1974, nơi cư trú: thôn L, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương, Xeo Thị L, sinh năm: 1999, ĐKHKTT: xã K, huyện K, tỉnh Nghệ An, Đinh Phương D, sinh ngày 22/12/2005, nơi cư trú: thôn 2, xã Đ Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, Hoàng Thị Mỹ L, sinh ngày 24/8/2004, trú tại: thôn 4, xã C, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, Thạch Kim Đ, sinh năm: 1996, nơi cư trú: thị trấn B, huyện A, tỉnh Hậu Giang, Nguyễn N Y và Hoàng Thị Như Q, sinh năm 2001, nơi cư trú: xã Tường Phù, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La dương tính với ma túy MDMA; Bùi Tri P, Lương Văn B, Cung Y Q, sinh ngày 02/7/2003, nơi cư trú: phường 11, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, Vũ Văn M, sinh năm: 1996, nơi cư trú: thôn H, xã H, thị xã M, tỉnh Hưng Yên, Lương Quang L, sinh năm:

2000, nơi cư trú: thôn Phượng Ngô 1, xã L, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, Nguyễn Thị Kiều V, sinh năm: 2001, nơi cư trú: Ấp 9, xã Vĩnh Trung, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, Vũ Bá H, sinh năm: 1993, nơi cư trú: thôn Bình Phiên, xã N Liên, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, Lương Văn D, Phạm Lê VA và Nguyễn Phi Nh, sinh ngày 14/02/2005, trú tại: thị trấn Bảy Ngàn, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang dương tính với ma túy Ketamine và ma túy MDMA.

Đối với Đinh Phương D, Hoàng Thị Mỹ L, Nguyễn Phi Nh, Đồng Văn H, Hoàng Thị Như Q mặc dù kết quả kiểm tra dương tính với chất ma túy MDMA hoặc ma túy Ketamine nhưng do các đối tượng trên khai không sử dụng ma túy tại quán New 5 Sao mà đã sử dụng trước đó ở chỗ khác.

2. Hành vi Bùi Quang H, Phạm Lê VA, Nguyễn Thế Đ đang bị truy tố về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy tại quán New 5 Sao:

Tại thời điểm kiểm tra quán New 5 Sao Cơ quan điều tra phát hiện còn có mặt Bùi Quang H là chủ quán, Phạm Lê VA và Nguyễn Thế Đ là nhân viên của quán đang ở khu vực quầy lễ tân. Trong đó, Bùi Quang H dương tính với chất ma túy.

Quá trình điều tra đã xác định được từ khoảng tháng 10/2020, Bùi Quang H thuê lại quán New 5 Sao để kinh doanh hát karaoke. Quá trình kinh doanh, H đã cho phép khách sử dụng trái phép chất ma túy tại quán. H quy định giá phòng khi khách chỉ hát, không sử dụng ma túy là 300.000 đồng/giờ; khi khách sử dụng ma túy thì giá phòng hát sẽ thay đổi là 600.000 đồng/giờ và khi này sẽ cập nhật vào máy tính cũng như ghi vào hóa đơn là “Giờ hát muộn”.

Để hoạt động, H thuê một số người với những công việc được H phân công cụ thể như sau: Nguyễn N Y làm người quản lý nhân viên nữ của quán, điều nhân viên nữ phục vụ phòng hát, phòng “bay” (phòng có khách sử dụng ma túy và nhân viên nữ được sử dụng ma túy cùng khách), quản lý chung khi H không có mặt tại quán, nhận tiền từ bộ phận thu ngân (VA) để đưa cho H; Nguyễn Thế Đ làm nhân viên phục vụ tại phòng hát, dẫn khách vào phòng hát, gọi đồ cho khách, dọn dẹp vệ sinh phòng và khi khách sử dụng ma túy thì báo qua bộ đàm cho VA để VA nhập thời gian vào máy tính để tính tiền đối với khách; Phạm Lê VA làm nhân viên lễ tân, bố trí phòng cho khách, thu ngân, có trách nhiệm viết hóa đơn và tiếp nhận thông tin từ Đ, nhập thời gian vào máy tính để tính tiền khi khách sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng hát; Lương Văn B làm nhân viên quản lý kho, trông xe, mở đóng cửa quán cho khách, chuẩn bị đồ ăn, uống cho khách trên Phòng, vắng mặt.

Từ tháng 5/2021, sau khi thành phố Hải Phòng có văn bản cấm các quán Karaoke hoạt động thì H đã quy định với toàn bộ nhân viên không nhận khách là người lạ, chỉ nhận khách quen, nếu khách muốn “bay” (sử dụng ma túy) thì vẫn cho phép hoạt động. Khi có khách quen của ai đến quán để hát, sử dụng ma túy đều phải báo cho H, H đồng ý thì mới được nhận.

Ngày 08/6/2021, khi Đ, D, P đến quán New 5 Sao, H biết rõ là Đ, D, P đến để thuê phòng sử dụng ma túy cùng những người khác nhưng H vẫn đồng ý. Đ và VA biết rõ việc nhóm của Đ sử dụng ma túy tại quán nhưng Đ vẫn thông báo B bộ đàm cho VA và VA đã cập nhật thời gian nhóm của Đ bắt đầu sử dụng ma túy để tính tiền.

Như vậy có thể xác định khoảng gần 23 giờ 00 Pt ngày 08/6/2021, Phạm Lê VA và Nguyễn Thế Đ đã giúp sức cho Bùi Quang H thực hiện hành vi chứa chấp cho Phan Thu Đ, Bùi Tri P, Lương Văn D, Cung Y Q, Vũ Thị Ánh N, Nguyễn N Y, Lương Văn B, Xeo Thị L, Thạch Kim Đ, Vũ Văn M, Lương Quang L, Nguyễn Thị Kiều V, Vũ Bá H sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng VIP 5 quán New 5 Sao. Trong đó, Vũ Thị Ánh N, Cung Y Quy là người dưới 16 tuổi.

3. Hành vi của Bùi Quang H, Phan Thu Đ, Nguyễn N Y và Lương Văn B bị truy tố về tội Mua bán trái phép chất ma túy:

Trong quá trình kinh doanh quán hát karaoke và cho phép khách sử dụng ma túy tại quán, Bùi Quang H đã nảy sinh ý định bán ma túy cho khách tại quán để kiếm lời. Do biết được Phan Thu Đ hay sử dụng ma túy nên khoảng ngày 24/5/2021, H đã nhờ Đ mua hộ H 20 viên thuốc lắc và 06 chỉ ma túy Ketamine để H sử dụng và bán cho khách khi khách có nhu cầu. Mặc dù biết được mục đích mua ma túy của H là vừa để sử dụng và vừa để bán cho người khác nhưng Đ vẫn đồng ý mua giúp cho H. Sau đó, Đ một mình đến chân cầu Trạm Bạc, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng gặp và mua của một nam thanh niên (chưa rõ nhân thân, lai lịch) 20 viên thuốc lắc và 06 chỉ ma túy Ketamine, đến tối cùng ngày Đ quay lại quán đưa số ma túy trên cho H. Đến ngày 26/5/2021 H đã chuyển khoản số tiền 10.200.000 đồng cho Đ qua số tài khoản ngân hàng của Đ để trả tiền mua ma túy.

Sau khi mua được ma túy, H đã sử dụng 06 viên thuốc lắc và 01 chỉ ma túy Ketamine, số ma túy còn lại là 14 viên thuốc lắc và 05 chỉ ma túy Ketamine, H đưa lại cho Y cất giữ để nằm mục đích bán cho khách kiếm lời. H và Y đã thống nhất giá bán ma túy là 1.500.000 đồng/01 chỉ ma túy Ketamine và 300.000 đồng/01 viên thuốc lắc. Sau khi được H chỉ đạo, Y đã nói lại cho B biết và dặn B khi nào có khách có nhu cầu mua ma túy thì báo lại cho Y để Y bán ma túy cho khách.

Khoảng 22 giờ ngày 28/5/2021, Bùi Văn Vượng, sinh năm: 1990, trú tại: thôn Tỉnh Thủy 2, xã An Hòa, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đi một mình đến quán New 5 Sao thuê phòng hát. Trong quá trình ngồi hát, Vượng nhờ B mua hộ Vượng 03 viên thuốc lắc và 01 chỉ Ketamine để Vượng sử dụng. B đồng ý rồi thông báo cho Y, Y đã đưa B 03 viên thuốc lắc và 01 chỉ ma túy Ketamine để B cầm xuống phòng bán cho Vượng với giá 2.400.000 đồng. Do không có đủ tiền mặt nên Vượng đề nghị được thanh toán B hình thức chuyển khoản, B đã cung cấp số tài khoản của Y cho Vượng và Vượng đã chuyển khoản trả cho Y 2.400.000 đồng tiền mua ma túy. Số tiền 2.400.000 đồng bán ma túy cho Vượng, Y đã trả cho H và nói rõ cho H biết việc bán ma túy trên. Đối với số ma túy còn lại, Y khai báo đã bán hết cho khách nhưng cụ thể bán cho ai và bán bao nhiêu thì Y không nhớ cụ thể. Y chưa thông báo việc bán số ma túy này cho H và B.

Do đó đã xác định hành vi cụ thể của Đ, H, B và Y như sau:

Ngày 24/5/2021, Phan Thu Đ đã thực hiện hành vi mua giúp ma túy cho Bùi Quang H. H đã đưa cho Nguyễn N Y cất giữ nhằm mục đích bán kiếm lời, sau đó đến ngày 28/5/2021 Y cùng Lương Văn B bán cho Bùi Văn Vượng 03 viên thuốc lắc và 01 chỉ ma túy Ketamine với giá 2.400.000 đồng.

Đối với số ma túy còn lại Y khai đã bán hết, Y không nhớ bán cho ai, ngoài lời khai của Y không còn tài liệu chứng cứ nào khác nên chưa đủ cơ sở kết luận về việc Y đã bán số ma túy trên.

Kết luận giám định số 374/KLGĐ-MT ngày 14-6-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể mầu trắng mẫu QT (thu giữ trên đĩa tại phòng Vip 5) gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,6 gam, là Katemine; tinh thể bám dính vỏ túi nilon kích thước (2x3) của mẫu KX01gửi giám định là ma túy, là loại Katemine, không đủ điều kiện xác định khối lượng; tinh thể bám dính vỏ túi nilon kích thước (2x2) của mẫu KX02 gửi giám định là ma túy, là loại Katemine, không đủ điều kiện xác định khối lượng; hai viên nén màu xanh của mẫu KX03 gửi giám định có khối lượng 1,78 gam, không tìm thấy thành phần cac chất ma túy.

Cáo trạng số 80/CT-VKS-P1 ngày 25/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Bùi Quang H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 và tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm c, d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Phan Thu Đ về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Nguyễn N Y và Lương Văn B về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Phạm Lê VA và Nguyễn Thế Đ về tội chưa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo điếm c, d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Lương Văn D và Bùi Tri P về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến về nội dung Cáo trạng, đều thừa nhận về hành vi bán trái phép chất ma túy, Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và chưa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy đúng như cáo trạng của Viện Kiểm sát đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Sau khi phân tích hành vi, tính chất, vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị:

Căn cứ điểm c, d khoản 2 Điều 256; khoản 1 Điều 251, Điều 17; Điều 38; Điều 55, Điều 58; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Quang H: Từ 8 năm 6 tháng tù đến 9 năm 6 tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; từ 3 năm tù đến 4 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là từ 11 năm 6 tháng tù đến 13 năm 6 tháng tù.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255; khoản 1 Điều 251, Điều 17; Điều 38; Điều 55, Điều 58; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Phan Thu Đ: Từ 8 năm 6 tháng tù đến 9 năm 6 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; từ 2 năm 6 tháng tù đến 3 năm 6 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là từ 11 năm tù đến 13 năm tù.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; khoản 1 Điều 251, Điều 17; Điều 38; Điều 55, Điều 58; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn N Y: Từ 8 năm tù đến 9 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; từ 2 năm 6 tháng tù đến 3 năm 6 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là từ 10 năm 6 tháng tù đến 12 năm 6 tháng tù.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; khoản 1 Điều 251, Điều 17; Điều 38; Điều 55, Điều 58; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Lương Văn B: Từ 8 năm tù đến 9 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; từ 2 năm 6 tháng tù đến 3 năm 6 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là từ 10 năm 6 tháng tù đến 12 năm 6 tháng tù.

Căn cứ điểm c, d khoản 2 Điều 256, Điều 17; Điều 38, Điều 58; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Lê VA Nguyễn Thế Đ: Từ 8 năm tù đến 9 năm tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 255, Điều 17; Điều 38, Điều 58; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Lương Văn D Bùi Tri P: Từ 8 năm tù đến 9 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 BLHS, đề nghị phạt tiền đối với bị cáo Bùi Quang H từ 10 đến 20 triệu đồng, đề nghị phạt tiền đối với các bị cáo Phan Thu Đ, Nguyễn N Y, Lương Văn B từ 5 đến 10 triệu đồng. Các bị cáo Phạm Lê VA, Nguyễn Thế Đ, Lương Văn D, Bùi Tri P thực hiện hành vi phạm tội không mang tính vụ lợi nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; 01 đĩa sứ màu trắng, 01 thẻ nhựa, 01 ví màu đen, 01 dây tín hiệu, 26 quyển sổ, 10 tờ hóa đơn cùng các giấy tờ khác.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuộn thành hình ống; điện thoại di động của H, Y, Đ, B.

+ Trả lại 01 camera màu trắng hiệu HIKVISION và 01 đầu CPU màu đen cho chị Nguyễn Thị H; trả lại các điện thoại thu giữ của những đối tượng khác.

+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 3.000.000đ của Phan Thu Đ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của đại diện Viện Kiểm sát; nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về tội danh và khung hình phạt:

Lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ, vật chứng trong hồ sơ vụ án, xác định:

[2] Khoảng gần 23 giờ ngày 08/6/2021 đến khoảng 01 giờ 00 Pt ngày 09/6/2021, Phan Thu Đ, Lương Văn D, Bùi Tri P đã có hành vi thống nhất chuẩn bị ma túy, thuê địa điểm để tổ chức cho Vũ Thị Ánh N, Cung Y Q sử dụng trái phép chất ma túy. Ngoài ra, Đ còn thực hiện hành vi đánh ma túy Ketamine và tổ chức cho Vũ Văn M, Lương Quang L, Nguyễn Thị Kiều V, Vũ Bá H sử dụng trái phép chất ma túy. Trong đó, Q sinh ngày 02/7/2003, N sinh ngày 05/12/2007, tính đến ngày 08/6/2021, Q 17 tuổi 11 tháng 06 ngày, N 13 tuổi 6 tháng 03 ngày.

[3] Nguyễn N Y và Lương Văn B đã có hành vi chuẩn bị chất ma túy và tổ chức cho Xeo Thị L, Thạch Kim Đ, Vũ Văn M, Lương Quang L, Nguyễn Thị Kiều V, Vũ Bá H sử dụng trái phép chất ma túy.

[4] Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định các bị cáo Đ, D và P đã tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho nhiều người và cho người từ đủ 13 đến dưới 18 tuổi theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; Nguyễn N Y và Lương Văn B tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho nhiều người theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

[5] Khoảng gần 23 giờ 00 Pt ngày 08/6/2021, Phạm Lê VA và Nguyễn Thế Đ đã giúp sức cho Bùi Quang H thực hiện hành vi chứa chấp cho Phan Thu Đ, Bùi Tri P, Lương Văn D, Cung Y Q, Vũ Thị Ánh N, Nguyễn N Y, Lương Văn B, Xeo Thị L, Thạch Kim Đ, Vũ Văn M, Lương Quang L, Nguyễn Thị Kiều V, Vũ Bá H sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng VIP 5 quán New 5 Sao. Trong đó, Q 17 tuổi 11 tháng 06 ngày, N 13 tuổi 6 tháng 03 ngày. Nên có đủ cơ sở khẳng định H, VA và Đ phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm c, d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự.

[6] Ngày 24/5/2021, Phan Thu Đ đã thực hiện hành vi mua giúp ma túy cho Bùi Quang H để H đưa cho Nguyễn N Y bán lại cho khách đến quán hát. Ngày 28/5/2021 Y cùng Lương Văn B bán cho Bùi Văn Vượng 03 viên thuốc lắc và 01 chỉ ma túy Ketamine với giá 2.400.000 đồng. Đủ cơ sở khẳng định H, Đ, Y và B phạm tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[7] Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố các bị cáo về tội danh, khung hình phạt và điều luật là có cơ sở và đúng pháp luật.

[8] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chê đô quan ly đôc quyên cua Nha nươc vê cac chât ma tuy , xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích kiếm lời, phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho các bị cáo. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nhiều tác hại đến sức khỏe con người, làm lan tràn nạn nghiện ngập. Ma túy còn được xem là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc đối với các bị cáo; qua đó, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy nói chung.

[9] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[10] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn N Y có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang, bà nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, có bác là liệt sỹ; bị cáo Bùi Quang H có ông ngoại là Nguyễn Văn B được tặng kỷ niệm chương Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù, đầy; bị cáo Phan Thu Đ đã từng phục vụ trong quân ngũ; bị cáo Lương Văn B có bố đẻ được tặng thưởng Huân chuân chiến sĩ vẻ vang và Huân chương chiến công hạng nhất, có bác là Liệt sỹ; bị cáo Bùi Tri P có cụ ngoại là Mẹ Việt Nam anh hùng, có ông là Liệt sỹ; Nguyễn Thế Đ có bác ruột là Liệt sỹ; bị cáo Phạm Lê VA có bác được tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Do vậy, các bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[11] Về phân hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm: Trong vụ án có 03 nhóm bị cáo, các bị cáo cố ý cùng thực hiện một tội phạm nên là đồng phạm của nhau quy định tại Điều 17 của Bộ luật Hình sự nhưng là đồng phạm giản đơn.

[12] Nhóm tổ chức sử dụng trái pháp chất ma túy gồm Đ, D, P, Y và B, các bị cáo chỉ có mục đích vui chơi phục vụ nhu cầu bản thân, không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ, phân công, phân nhiệm cụ thể giữa các đồng phạm; không có người tổ chức, cầm đầu, chỉ huy; các bị cáo đều là người thực hành. Tuy nhiên, vai trò của Đ hơn D và P, bởi Đ là người bỏ tiền ra để mua ma túy, là người sẽ thực hiện việc chi trả toàn bộ cho cả nhóm, ngoài ra Đ còn là người đánh ma túy và đưa cho Minh, Long, Vi và Hưng sử dụng, nên Đ phải chịu trách nhiệm hình sự hơn các bị cáo khác; D và P chỉ là những người đồng tình với Đ và cùng thống nhất sẽ chia tiền chung của cả nhóm, nên vai trò của D và P là ngang nhau và ở vai trò nhất định; B là người đi mua hộ ma túy cho Y, đồng thời trực tiếp đưa ma túy cho nhiều người sử dụng, còn Y là người tổ chức sinh nhật và nhờ B mua ma túy về để cho mọi người cùng sử dụng, nên vai trò của B và Y là ngang nhau.

[13] Nhóm các bị cáo mua bán trái phép chất ma túy gồm H, Y, Đ và B. H là người bỏ tiền và mua ma túy của Đ, Đ cũng chỉ là người đi mua hộ ma túy cho B, chứ không hưởng lợi gì từ ma túy, Y được H nhờ cất giữ hộ để bán lại cho các khách hát kiếm lời, nhưng Y cũng không hưởng lợi gì từ việc bán ma túy hộ H; bị cáo B chỉ là người giúp Y bán ma túy, các bị cáo cũng không có người chỉ huy cầm đầu cụ thể, các bị cáo tự nguyện giúp nhau mua bán ma túy nên đồng phạm trong nhóm này cũng là đồng phạm giản đơn, tất cả cũng có vai trò như nhau. Tuy nhiên, H là người có vai trò chính, nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn Đ, B và Y.

[14] Đối với nhóm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy gồm H, VA và Đ thì H có vai trò chỉ đạo cho các bị cáo về cách thức thông báo, ghi thời gian tính tiền giờ khi khách muốn bay lắc, nhận khách bay lắc là khách quen, H có vai trò chỉ huy, cầm đầu, nhưng không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. H có vai trò cao hơn VA và Đ, các bị cáo VA và Đ đều là nhân viên, được hưởng lương từ nên phải thực hiện, vai trò của VA và Đ là ngang nhau.

[15] Về nhân thân: Các bị cáo đều chưa phạm tội lần nào. Riêng bị cáo Đ năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc”đã được xóa nên có nhân thân xấu hơn các bị cáo khác. Hội đồng xét xử cần xem xét yếu tố nhân thân này để làm căn cứ quyết định hình phạt đối với từng bị cáo.

[16] Về hình phạt chính: Trên cơ sở xem xét toàn diện về khung hình phạt, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò của từng bị cáo trong đồng phạm và nhân thân của các bị cáo như đã nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Cần xử phạt các bị cáo Đ, Y, B, D, P trong nhóm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; xử phạt D, P trên mức khởi điểm của khung hình phạt một chút; Y, B phải chịu trách nhiệm cao hơn D và P, còn Đ phải chịu mức án cao hơn Y, B về tội tổ chức sử dụng trái pháp chất ma túy. Cần xử phạt bị cáo Đ,Y và B trên mức khởi điểm của khung hình phạt về Tội mua bán trái phép chất ma túy, H chịu mức hình phạt cao hơn Đ, Y và B. Đối với nhóm tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy thì VA và Đ trên mức khởi điểm của khung hình phạt một chút, H chịu mức phạt cao hơn VA và Đ.

[17] Về hình phạt bổ sung: Cần phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với H, Đ, Y và B theo mức đề nghị của Viện kiểm sát, các bị cáo còn lại có vai trò thứ yếu, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với P, D, VA và Đ.

Về xử lý vật chứng:

[18] Tịch thu tiêu hủy chât ma tuy sau giám đ ịnh thu giữ của các bị cáo tại phòng Vip 5 gồm 01 gói ma túy kích thước; tinh thể bám dính vỏ túi nilon kích thước (2x3) của mẫu KX01; tinh thể bám dính vỏ túi nilon kích thước (2x2) của mẫu KX02; hai viên nén màu xanh của mẫu KX03 có khối lượng 1,78 gam trong phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng;

01 ví da màu đen và toàn bộ sổ sách, giấy tờ, hóa đơn tại quầy lễ tân theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[19] Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng thu giư cua b ị cáo Đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen thu giữ của bị cáo B, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen của bị cáo Y; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu vàng của bị cáo H theo điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[20] Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn N Y; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Văn B; 3.000.000 (Ba triệu) đồng cho bị cáo Đ nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[21] Trả lại cho bà Nguyễn Thị H 01 đầu ghi camera màu trắng nhãn hiệu HIKVISION và 01 đầu CPU màu đen.

Trả lại Nguyễn Thế Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng và 01 điện thoại đi dộng nhãn hiệu Nokia màu nâu; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng cho Phạm Lê VA; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng cho Bùi Tri P; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám cho Lương Văn D.

[22] Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/5/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Cục Thi hành an Dân sự thành phố Hải Phòng.

Về vấn đề khác:

[23] Đối với đối tượng tên B, theo Phan Thu Đ khai là người đã bán ma túy cho Đ vào ngày 08/6/2021, qua điều tra xác định có Đặng Văn Bình, sinh năm: 1990; nơi cư trú: thôn Trung Hạng, xã Liên Hòa, huyện K, tỉnh Hải Dương có dấu hiệu có liên quan. Hiện tại B vắng mặt tại địa phương, chưa tiến hành ghi được lời khai, Cơ quan tiến hành tách tài liệu đối với Bình tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[24] Đối với đối tượng bán ma túy cho Lương Văn B tại quán New 5 Sao và đối tượng bán ma túy cho Phan Thu Đ tại chân cầu Trạm Bạc, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng, do B và Đ không khai được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ lập hồ sơ xử lý.

[25] Đối với các đối tượng có kết quả dương tính với ma túy gồm: Vũ Văn M, Xeo Thị L, Thạch Kim Đ, Cung Y Q, Nguyễn Thị Kiều V, Lương Quang L, Vũ Bá H, Hoàng Thị Mỹ L, Hoàng Thị Như Q, Đồng Văn H, Đinh Phương D, Nguyễn Phi Nh và Vũ Thị Ánh N, cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

[26] Đối với 08 người khách hát có mặt tại phòng Vip 4 quán Karaoke New 5 sao: Qua kiểm tra những người này không sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra đã tiến hành bàn giao cho Công an xã N, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm các quy định về phòng chống dịch bệnh của Nhà nước.

[27] Đối với Đinh Phương D có hành vi cuốn ống hút B tờ tiền 10.000 đồng để những người khác sử dụng trái phép chất ma túy Ketamine, tính đến ngày 08/6/2021 mới được 15 tuổi 5 tháng 17 ngày nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự.

[28] Đối với Cung Y Q có hành vi kẻ Ketamine, soi đèn cho Phan Thu Đ đánh Ketamine có dấu hiệu của việc giúp sức cho Phan Thu Đ, Lương Văn D và Bùi Tri P thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Xét tính chất hành vi có mức độ, bản thân Q là người chưa đủ 18 tuổi, nhận thức còn nhiều hạn chế, Cơ quan điều tra không khởi tố, điều tra đối với Cung Y Q về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[29] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa nên có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt:

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251; các điểm c và d khoản 2 Điều 256; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 55 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bùi Quang H 8 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; 03 (Ba) năm về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 11 (Mười một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 12/6/2021.

Phạt tiền bị cáo Bùi Quang H 10.000.000 (Mười triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251, các điểm b và c khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Phan Thu Đ 8 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 11 (Mười một) năm. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021.

Phạt tiền Phan Thu Đ 5.000.000 (Năm triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251, các điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Nguyễn N Y 8 (Tám) năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 10 (Mười) năm 06 (Sáu) tháng. Trừ cho bị cáo 9 ngày tạm giữ từ ngày 28/6/2021 đến ngày 07/7/2021. Bị cáo phải thi hành 10 (Mười) năm 05 (Năm) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Nguyễn N Y cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Lương Văn B 8 (Tám) năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 10 (Mười) năm 06 (Sáu) tháng. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021.

Phạt tiền Nguyễn N Y, Lương Văn B mỗi bị cáo 5.000.000 (Năm triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ vào các điểm c và d khoản 2 Điều 256; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Phạm Lê VA 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 28/6/2021.

- Nguyễn Thế Đ 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/12/2021.

Căn cứ vào các điểm b và c khoản 2 Điều 255, Điều 17; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Lương Văn D 7 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021.

- Bùi Tri P 7 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ vào các điểm a và c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; 01 đĩa sứ màu trắng, 01 thẻ nhựa, 01 ví màu đen, 01 dây tín hiệu, 26 quyển sổ, 10 tờ hóa đơn cùng các giấy tờ khác.

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, có số Imei 356735114020895 của bị cáo Phan Thu Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, có số Imei1 353544561763616, số Imei2 353914471763610 của bị cáo Lương Văn B;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, có số Imei 355375084718557 của bị cáo Nguyễn N Y; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu vàng, trong máy có ghi số CODE 0565228 của bị cáo Bùi Quang H; tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuộn thành hình ống; điện thoại di động của H, Y, Đ, B.

- Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn N Y; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Văn B; 3.000.000 (Ba triệu) đồng cho bị cáo Đ nhưng cần tạm giữ 3.000.000 (Ba triệu) đồng của bị cáo Đ để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bà Nguyễn Thị H 01 đầu ghi camera màu trắng nhãn hiệu HIKVISION, 01 đầu CPU màu đen.

Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng trắng, có số Imei 355387070598638 và 01 điện thoại đi dộng nhãn hiệu Nokia màu nâu, có số Imei 354828/02/096578/2 cho bị cáo Nguyễn Thế Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, có số Imei 356567085761813 cho bị cáo Phạm Lê VA; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, có số Imei 357326092587565 cho bị cáo Bùi Tri P; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng hồng, có số Imei 353104101828849 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám, có số Imei 355399080773671 cho bị cáo Lương Văn D.

Theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 17/5/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố với Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, buộc các bị cáo H, Đ, Y, B, D, P, VA và Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

522
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép, tổ chức sử dụng trái phép và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 95/2022/HS-ST

Số hiệu:95/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về