TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 176/2022/HS-ST NGÀY 10/08/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 10 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 173/2022/TLST- HS ngày 27 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Huỳnh K, sinh năm 2001 tại tỉnh An Giang; nơi cư trú: Ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S (đã chết) và bà Huỳnh Thị N; tiền án, tiền sự: Không.
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/02/2022 cho đến nay. Có mặt.
2. Phạm Văn N, sinh năm 1991 tại tỉnh Bạc Liêu; nơi cư trú: Ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Lê Thị H (đã chết); nhân thân: Ngày 02/7/2022 bị Công an thị xã Tân Uyên ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý với hình thức xử phạt tiền 1.500.000 đồng; tiền án, tiền sự: Không;
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/02/2022 cho đến nay. Có mặt.
3. Lê Mạnh T, sinh năm 2002 tại tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Ú và bà Nguyễn Thị Kim H; tiền án, tiền sự: Không;
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/02/2022 cho đến nay. Có mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Văn Ú, sinh năm 1981; nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Vắng mặt.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Trọng T. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 01 giờ 40 phút ngày 03/02/2022, Công an phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên làm nhiệm vụ tuần tra, khi đến đoạn đường 05 thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương phát hiện Lê Mạnh T đang điều khiển xe mô tô biển số 68F1-0140 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng lại kiểm tra thì phát hiện trên tay phải của T có 01 túi nylon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (Trường khai là ma tuý đá).
Quá trình làm việc, Lê Mạnh T khai nhận: Nguyễn Huỳnh K và Lê Mạnh T có mối quan hệ quen biết với nhau, đều là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine). Khoảng 01 giờ ngày 03/02/2022, do có nhu cầu sử dụng ma tuý Lê Mạnh T sử dụng mạng xã hội Zalo gọi điện cho K hỏi mua ma túy với số tiền 700.000 đồng, K nghe máy và đồng ý bán ma túy cho T, địa điểm giao nhận ma túy tại phòng của K tại nhà trọ U thuộc khu phố Ô, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Sau khi thỏa thuận xong, Lê Mạnh T điều khiển xe mô tô biển số 68F1-0140 đi đến nhà trọ U để gặp K, khi gặp T đưa cho K 700.000 đồng và nhận từ K 01 gói nylon bên trong chứa ma túy, nhận được ma túy T cầm ở tay phải và điều khiển xe đi về phòng trọ. Khi đi đến đoạn đường Tân Hiệp 05 thì bị Công an phường Tân Hiệp tuần tra phát hiện, bắt quả tang. Ngoài lần mua ma tuý này, T khai đã mua của K 03 lần trước đó, mỗi lần mua 300.000 đồng, đã sử dụng hết.
Công an phường Tân Hiệp tiến hành lập biên bản niêm phong, biên bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 gói nylon miệng hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma tuý tổng hợp), 01 xe mô tô biển số 68F1-0140;
01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20. Sau đó, chuyển hồ sơ, vật chứng thu giữ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục thụ lý điều tra theo thẩm quyền.
Sau khi tiếp nhận nguồn tin từ Công an phường Tân Hiệp, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiến hành khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Nguyễn Huỳnh K là phòng số 3 nhà trọ U thuộc khu phố Ô, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, tại thời điểm khám xét có mặt Nguyễn Huỳnh K, Phạm Văn N, Nguyễn Trọng T. Qúa trình khám xét thu giữ gồm: 01 túi nylon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 02 gói nylon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 căn cước công dân tên Nguyễn Huỳnh K; 01 điện thoại di động hiệu OPPO Ren04 và 01 điện thoại di động Samsung J7 của Phạm Văn N.
Qua làm việc Nguyễn Huỳnh K, Phạm Văn N, Nguyễn Trọng T khai nhận: Nguyễn Huỳnh K khai: K không có công việc làm nên không có tiền tiêu xài, từ tháng 11/2021 K bắt đầu mua ma tuý về bán cho các đối tượng nghiện để kiếm tiền lời trang trải cuộc sống. Số ma túy thu giữ ở phòng trọ của K là do K mua về để bán cho các đối tượng nghiện, cụ thể K đã mua được khoảng 03 lần, mỗi lần với số tiền 4.500.000 đồng. K mua ma tuý tại khu vực phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương của 01 đối tượng nam (không rõ lai lịch). Sau khi mua được ma túy K đem về chia nhỏ và cất giấu trong các gói nylon để bán cho các đối tượng nghiện. K đã bán cho Nguyễn Trọng T 05 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng; bán cho Lê Mạnh T 04 lần, 03 lần đầu mỗi lần 300.000 đồng, lần thứ tư bán với số tiền 700.000 đồng. Ngoài ra, K còn giao ma túy cho Phạm Văn N để N đi bán cho các đối tượng nghiện (không rõ lai lịch) 03 lần, cụ thể vào các ngày 29/01/2022; 31/01/2022; 02/02/2022. K còn nhiều lần cung cấp nơi ở, ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy cho N sử dụng. Ngày 02/02/2022, K lấy ma túy ra và rủ N, T cùng sử dụng chung. Số tiền K thu được từ việc bán ma túy là 5.000.000 đồng, K đã sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân hết.
Phạm Văn N khai: N đến ở chung với K tại phòng trọ được khoảng 07 ngày, trong thời gian ở tại phòng trọ thì K nhiều lần cung cấp ma túy cho N sử dụng. Ngày 02/02/2022, K lấy ma túy ra và rủ N, T cùng sử dụng. N đã giúp K đi bán ma túy cho các đối tượng nghiện (không rõ lai lịch) 03 lần, cụ thể vào các ngày 29/01/2022; 31/01/2022; 02/02/2022. N không được K trả tiền công chỉ cho sử dụng ma tuý không lấy tiền.
Nguyễn Trọng T khai: T là đối tượng nghiện ma tuý, đã mua ma tuý của K được 05 lần, mỗi lần từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng. Ngày 02/02/2022, khi qua phòng trọ của K chơi, ngồi nhậu, sau khi nhậu đến khoảng 14 giờ 00 phút thì K lấy ma túy ra và rủ N, T cùng sử dụng. Sau khi hút được khoảng 07 hơi thì T lên võng nằm chơi điện thoại. Sau đó Lực lượng Công an tiến hành khám xét chỗ ở của K.
Bản kết luận giám định số 117/MT-PC09 ngày 11/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể thu giữ từ Lê Mạnh T gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4651 gam, loại Methamphetamine (M1); Mẫu tinh thể thu giữ từ Nguyễn Huỳnh K gửi giám định là ma túy, có khối lượng 7,9882 gam (M2-1); 0,0421 gam (M2-2); 0,5092 gam (M2-3), loại Methamphetamine.
Bản Cáo trạng số 183/CT-VKS.TU ngày 22/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Huỳnh K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 và điểm a, b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Phạm Văn N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Lê Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:
+ Về trách nhiệm hình sự:
Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251 và điểm a, b khoản 2 Điều 255 ; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh K từ 09 năm đến 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành từ 16 năm đến18 năm tù.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn N từ 07 năm đến 08 năm tù.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Mạnh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù + Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên;
Tịch thu, tiêu hủy 02 bì thư niêm phong, ký hiệu 117/PC09 có chữ ký của người bị bắt Lê Mạnh T, Nguyễn Huỳnh K, người chứng kiến Phạm Văn N, Nguyễn Trọng T, Phạm Trung N, cán bộ niêm phong Lê Thanh S; dấu đỏ của Công an phường Tân Hiệp; dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 117/MT-PC09 ngày 11/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương;
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20; 01 điện thoại di động hiệu OPPO Ren04;
Trả lại cho Phạm Văn N 01 điện thoại di động Samsung J7.
Trả lại 01 căn cước công dân tên Nguyễn Huỳnh K cho Nguyễn Huỳnh K. Trả lại 01 xe mô tô biển số 68F1-0140 cho ông Lê Văn Út.
- Các bị cáo Nguyễn Huỳnh K, Phạm Văn N, Lê Mạnh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo cơ hội sửa chữa lỗi lầm để trở thành công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên việc lập Danh bản, Chỉ bản của các bị cáo không thực hiện theo đúng mẫu số 186 và 187 của Thông tư 61/2017/TT-BCA ngày 14/12/2017 của Bộ Công an quy định biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về điều tra hình sự, cần phải khắc phục.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Nguyễn Huỳnh K, Phạm Văn N, Lê Mạnh T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và kết luận giám định. Do đó, có đủ căn cứ kết luận:
[2.1] Ngày 03/02/2022, tại đoạn đường 05 thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị cáo Lê Mạnh T có hành vi tàng trữ 0,4651 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Do đó, Hành vi của bị cáo Lê Mạnh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
[2.2] Nguyễn Huỳnh K không có nghề nghiệp. Từ khoảng tháng 11/2021 đến ngày 03/02/2022, K nhiều lần mua ma tuý của một đối tượng không rõ lai lịch về để bán lại cho các đối tượng nghiện để kiếm tiền lời phục vụ cho cuộc sống hằng ngày. Ngày 03/02/2022, tại phòng số 3 nhà trọ U thuộc khu phố Ô, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Huỳnh K bán cho Lê Mạnh T 0,4651 gam ma túy loại Methamphetamine với số tiền 700.000 đồng, K còn tàng trữ 8,5395 gam Methamphetamine nhằm mục đích bán cho các con nghiện khác. Ngoài lần bán ma túy cho Lê Mạnh T vào ngày 03/02/2022 thì trong thời gian ở tại phòng số 3 nhà trọ U, Nguyễn Huỳnh K đã bán ma tuý cho cho Nguyễn Trọng T 05 lần, mỗi lần với số tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng; bán cho Lê Mạnh T 03 lần, mỗi lần 300.000 đồng. Ngoài ra, K còn giao ma túy cho Phạm Văn N để đi bán cho các đối tượng nghiện (không rõ lai lịch) 03 lần, cụ thể vào các ngày 29/01/2022; 31/01/2022; 02/02/2022.
Ngoài hành vi bán và giao ma túy cho N để bán thì K còn nhiều lần cung cấp nơi ở, ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy cho N sử dụng. Ngày 02/02/2022, K tiếp tục lấy ma túy ra và rủ N, T cùng sử dụng.
Do đó, Hành vi của bị cáo Nguyễn Huỳnh K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 và điểm a, b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
[2.3] Phạm Văn N sau khi chuyển đến ở chung với K, biết K thường xuyên bán ma tuý cho các đối tượng nghiện. N đã 03 lần, cụ thể vào các ngày 29/01/2022;
31/01/2022; 02/02/2022 nhận ma tuý từ K đi giao cho các đối tượng nghiện và nhận tiền đưa về cho K.
Do đó, Hành vi của bị cáo Phạm Văn N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự [3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo về tội danh, khung hình phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước trong quản lý, sử dụng chất ma túy. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo đã vi phạm quy định về chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác, ngoài ra hành vi của các bị cáo còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Về đồng phạm: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn giữa bị cáo N và bị cáo K. Trong đó, vai trò của các bị cáo K cao hơn bị cáo N. Do đó, khi quyết định hình phạt sẽ xem xét toàn diện về vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.
[6] Về nhân thân: Bị cáo Phạm Văn N ngày 02/7/2022 bị Công an thị xã Tân Uyên ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý với hình thức xử phạt tiền 1.500.000 đồng.
[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo K phạm tội thuộc trường hợp có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng theo điểm b khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[9] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ, đúng luật, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.
[10] Bị cáo Nguyễn Huỳnh K phạm nhiều tội nhưng xét xử cùng 01 lần, do đó Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với từng tội danh, sau đó tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật Hình sự.
[11] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
+ Đối với 01 bì thư niêm phong, ký hiệu 117/PC09 có chữ ký của người bị bắt Lê Mạnh T, Nguyễn Huỳnh K, người chứng kiến Phạm Văn N, Nguyễn Trọng T, Phạm Trung N, cán bộ niêm phong Lê Thanh S; dấu đỏ của Công an phường Tân Hiệp; dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 117/MT- PC09 ngày 11/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20; 01 điện thoại di động hiệu OPPO Ren04 thu giữ của các bị cáo T và K. Các bị cáo khai nhận sử dụng điện thoại để trao đổi, giao dịch mua bán ma tuý. Do đó cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
+ Đối với 01 điện thoại di động Samsung J7 thu giữ của bị cáo N, bị cáo không sử dụng điện thoại vào mục đích phạm tội và xin nhận lại điện thoại này. Do đó, cần trả lại cho bị cáo N.
+ Đối với 01 căn cước công dân tên Nguyễn Huỳnh K không liên quan đến vụ án, do đó cần trả lại cho Nguyễn Huỳnh K.
+ Đối với 01 xe mô tô biển số 68F1-0140. Qúa trình điều tra xác định xe thuộc sở hữu của ông Lê Văn Ú (là cha của bị cáo T), ông Ú cho T mượn xe 68F1- 0140 để sử dụng, việc T sử dụng xe đi mua ma túy ông Ú không biết. Do đó, cần trả lại cho ông Ú.
+ Buộc bị cáo K nộp số tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma túy là 5.000.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.
[12] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Trọng T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã tiến hành xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng.
[13] Đối với đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Huỳnh K, hiện chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau.
[14] Đối với các đối tượng mua ma túy của Nguyễn Huỳnh K, hiện chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra xác minh làm rõ.
[15] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Huỳnh K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;
Bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;
Bị cáo Lê Mạnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Về hình phạt:
1.1. Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251; Điểm a, b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh K 09 (Chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 16 (Mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/02/2022.
1.2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Phạm Văn N 07 (Bảy) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/02/2022.
1.3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Mạnh T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/02/2022.
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong, ký hiệu 117/PC09 có chữ ký của người bị bắt Lê Mạnh T, Nguyễn Huỳnh K, người chứng kiến Phạm Văn N, Nguyễn Trọng T, Phạm Trung N, cán bộ niêm phong Lê Thanh S; dấu đỏ của Công an phường Tân Hiệp; dấu đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa Methamphetamine theo kết luận giám định số 117/MT-PC09 ngày 11/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 màu đen, số imei bị mờ; 01 điện thoại di động hiệu OPPO Reno4 màu tím.
- Trả lại cho bị cáo Phạm Văn N 01 điện thoại di động Samsung J7 màu vàng đồng, số imei1: 357625/08/011514/3.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Huỳnh K 01 căn cước công dân tên Nguyễn Huỳnh K.
- Trả lại cho ông Lê Văn Ú 01 xe mô tô Honda Wave biển số 68F1-0140 màu đỏ, số khung HC09077Y298569, số máy HC09E5398629.
- Buộc bị cáo Nguyễn Huỳnh K nộp 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để sung ngân sách Nhà nước (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) 3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Nguyễn Huỳnh K, Lê Mạnh T và Phạm Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nếu vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai./.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý và tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 176/2022/HS-ST
Số hiệu: | 176/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về