TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 96/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2020/ HSST ngày 14 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với:
Bị cáo: Nguyễn Đức T , Sinh năm: 1970; ĐKNKTT và chỗ ở: DT, phường NN, thành phố TH, tỉnh TH; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Văn hóa: 10/10; Nghề nghiệp: LĐTD; Con ông Nguyễn Đức D , sinh năm 1938 và bà Lê Thị X , sinh năm 1945; Vợ: Lê Thị Thanh T sinh năm 1980; Có 01 con sinh năm 2013.
Tiền án, Tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 15/11/1991 bị TAND tỉnh Bến Tre xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Chấp hành xong bản án ngày 02/8/1993 Ngày 22/11/2005, bị TAND tỉnh Thanh Hóa xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 19/11/2012 Ngày 18/6/2013 bị TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 25/3/2016 Bị tạm giữ từ ngày 09/7/2020 đến ngày 12/7/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 08 giờ 30 phút ngày 09/7/2020, tại khu vực cầu Bến Ngự (Thuộc phường Nam Ngạn, TP.Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) tổ công tác Công an phường Nam Ngạn bắt quả tang Nguyễn Đức T đang cất giấu 07 gói nilon màu vàng, kích thước mỗi gói khoảng 0,5 x1cm, bên trong mỗi gói có chứa chất bột màu trắng. T khai đây là số Heroin T mang đi bán nhưng chưa bán được thì bị phát hiện và tịch thu tang vật.
Tại Kết luận giám định số 1860/PC09 ngày 10/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,405g, loại: Heroin.
Quá trình điều tra Nguyễn Đức T khai nhận: Ngày 08/7/2020 Thuận mua của Lê Thị Nương (sinh năm 1971 trú tại: Thôn Thịnh Ngọc xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa) 01 gói Herroin với giá 1.600.000đ. T đã sử dụng một phần, phần còn lại T chia thành 07 gói nhỏ, ngày 09/7/2020 T dùng xe mô tô BKS 36B4- 600.12 đem số ma túy trên đi bán kiếm lời thì bị bắt quả tang và thu giữ tang vật.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với tài liệu chứng cử đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.
Đối với Lê Thị Nương, là người T khai đã bán ma túy cho T , Cơ quan CSĐT đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Thị Nương (Thôn Thịnh Ngọc xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa) tại nơi ở của Nương thu giữ 1 bọc nilon màu đen bên trong là nilon màu trắng gói chất bột màu trắng. Nương khai đây là số ma túy Nương cất giấu để sử dụng.
Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai và đối chất giữa Nương và T , Nương không thừa nhận đã bán ma túy cho T . Ngoài lời khai của T không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh việc Nương đã bán ma túy cho T . Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nương, Cơ quan CSĐT đã khởi tố điều tra bằng vụ án riêng.
Vật chứng vụ án hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự TP. Thanh Hóa gồm: Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Lê Đức Phương, Lê Thành Nam; 01 điện thoại Nokia X1, màu đen, điện thoại đã cũ, không kiểm tra chất lượng máy móc bên trong, theo “Biên bản giao nhận vật chứng” số 79/THA ngày 11/01/2021 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.
Đối với xe mô tô BKS 36B4-600.12 qua điều tra xác định là của chị Lê Thị Thanh T , chị T không biết việc T sử dụng xe của mình vào việc mua bán ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị T Tại Cáo trạng số 07/CTr-VKS ngày 14/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Nguyễn Đức T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 - của Bộ luật hình sự tuyên bố Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Xử phạt Nguyễn Đức T từ 36 đến 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ;
Vật chứng vụ án: áp dụng khoản 1, khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại Nokia X1 màu đen đã cũ; Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Căn cứ hành vi của bị cáo và kết quả giám định có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 30 phút ngày 09/7/2020, tại khu vực cầu Bến Ngự (Thuộc phường Nam Ngạn, TP.Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) Nguyễn Đức T đã có hành vi mua bán trái phép 0,405g chất ma túy, loại Herroin. Viện kiểm sát nhân dân TP. Thanh Hóa truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất vụ án: Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lí của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy. Xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi phạm tội khác nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc để đảm bảo tính răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[3] Xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51- Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án nhưng không ăn năn hối cãi mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, HĐXX xem xét để có mức án phù hợp đảm bảo sự khoan hồng cũng như tính răn đe của pháp luật, và cần cách li bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội một thời gian mới đủ điều kiện đề giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội và để phòng ngừa chung.
[4] Đối với việc bị cáo T khai Nương đã bán ma túy cho T , qua đối chất Nương không thừa nhận, cơ quan điều tra cũng không có tài liệu chứng cứ việc Nương bán ma túy cho T . Do đó không có cơ sở xử lý Nương về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nương, Cơ quan CSĐT đã khởi tố điều tra bằng vụ án riêng là đúng quy định của pháp luật.
[5] Vật chứng vụ án: Số ma túy mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại Nokia X1, màu đen, điện thoại đã cũ thuộc sở hữu của bị cáo, không phải là vật chứng vụ án nên trả lại cho bị cáo khi án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 - BLTTHS.
[6] Đối với xe mô tô BKS 36B4-600.12 Thuận dùng để đi bán ma túy là xe của chị Lê Thị Thanh T , chị T không biết việc T sử dụng xe của mình vào việc mua bán ma túy, Cơ quan điều tra trả lại cho chị T là đúng quy định của pháp luật
[7] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp.
[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 36 (Ba sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/7/2020 - Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Sau khi án có hiệu lực pháp luật, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; Trả lại cho bị cáo T 01 điện thoại Nokia X1, màu đen, đã cũ. Vật chứng hiện đang thu giữ tại Chi cục THADS thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 79/THA ngày 11/01/2021 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.
- Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 - BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000đ án phí HSST.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Đức T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 96/2021/HS-ST
Số hiệu: | 96/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về