TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 94/2023/HS-ST NGÀY 22/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2023/QĐXXST–HS ngày 07/8/2023 đối với bị cáo:
LÊ MINH H, tên gọi khác: không; Sinh ngày 12 tháng 8 năm 1996 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKHKTT: Tổ 49, phường H, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Chổ ở: Phòng 104, số 68 M, phường Thuận Phước, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Nghề nghiệp: lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Minh V và bà Nguyễn Thị H, gia đình có ba anh em, bị cáo là con thứ nhất.
Tiền án: Chưa Tiền sự: Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 105/2020/QĐ-TA ngày 23/11/2020 của Toà Án nhân dân quận Thanh Khê với thời hạn 12 tháng, chấp hành xong ngày 28/7/2022 Nhân thân:
+ Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 342/QĐ-UBND ngày 25/11/2019 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường Hoà Khê về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý, với thời hạn 03 tháng.
+ Quyết định xử phạt hành chính số 37 ngày 12/4/2023 của Công an quận Thanh Khê về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma tuý, phạt tiền 1.500.000 đồng.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/4/2023, hiện đang tạm giam tại Trại giam Hoà Sơn thuộc Công an thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên toà..
NGUYỄN THỊ THANH P, tên gọi khác: không; Sinh ngày 08 tháng 5 năm 1996 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKHKTT: K202/89 H, phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; Chổ ở: Phòng 104, số 68 M, phường Thuận Phước, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đình D và bà Nguyễn Thị Xuân Th, gia đình có hai anh em, bị cáo là con thứ nhất.
Tiền án, tiền sự: Chưa.
Nhân thân: Quyết định xử phạt hành chính số 38 ngày 12/4/2023 của Công an quận Thanh Khê về hành vi: Sử dụng trái phép chất ma tuý, phạt tiền 1.500.000 đồng;
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 03/4/2023, hiện đang tạm giam tại Trại giam Hoà Sơn thuộc Công an thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên toà.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Minh V1, sinh năm 1971. Trú tại: Tổ 49, phường Hoà Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P cùng thuê trọ sống chung tại phòng trọ 104, số 68 Mai Lão Bạng, phường Thuận Phước, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Khoảng 17 giờ ngày 03/4/2023, H đến khu vực chợ Mân Thái, thành phố Đà Nẵng mua 01 gói ma tuý đá với số tiền 1.000.000 đồng của người tên Si ( không rõ nhân thân, lai lịch) rồi đem về phòng trọ cất giấu. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H đang ở phòng trọ thì có người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) liên lạc hỏi mua 500.000 đồng ma tuý và hẹn địa điểm giao dịch tại K64/55 Trần Cao Vân, phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, thànnh phố Đà Nẵng. H lấy gói ma tuý ra để phân chia thành 03 gói nhỏ để trên bàn; lúc này, P đi tắm ra nhìn thấy 03 gói ma tuý thì H nói để bán lấy tiền, P nói “Ừ”. Sau đó, H lấy 01 gói cuộn vào trong mảnh giấy cầm trên tay trái, 02 gói còn lại bỏ vào bao ni lông rồi nói với P đi giao ma tuý xong thì đi ăn. H và P đi đến đường Đống Đa thì H đưa cho P 02 gói ma tuý để giữ giúp do mặc quần áo không có túi nên P giấu ma tuý vào trong áo ngực. Đến 21h cùng ngày, khi H điều khiển xe mô tô Exiter biển kiểm soát 43H1-124.xx chở P đến trước nhà số K64/55 Trần cao Vân, thành phố Đà Nẵng đứng chờ bán ma tuý thì bị Đội CSĐT tội phạm về ma tuý Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát hiện bắt quả tang; thu giữ tại nền đường gần vị trí H và P đứng có 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có 01 gói ni lông kích thước (3x3)cm chứa tinh thể màu trắng ký hiệu G1. H khai nhận là ma tuý đá H dùng để bán. Kiểm tra người P phát hiện phía trong áo ngực bên trái P đang mặc có 02 gói ni lông kích thước (02x2) cm bên trong đều chứa tinh thể màu trắng G2. P khai nhận là ma tuý đá do H đưa cất giấu để bán. Ngoài ra, còn thu giữ một số vật chứng có liên quan.
Qua thử test nước tiểu: Lê Minh H, Nguyễn Thị Thanh P đều dương tính với ma tuý.
Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của H và P tại phòng trọ 104, số 68 Mai Lão Bạng, phường Thuận Phước, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng thu giữ: 01 cân điện tử màu đen, 05 vỏ ni lông kích thước (02x02)cm và 05 vỏ ni lông kích thước (03x03)cm; 01 điện thoại di động Iphone màu trắng gắn sim số 0935.7803xx.
Theo Kết luận giám số 307/KL-KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình hiệu G1, G2 gửi giám định là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng mẫu G1: 0,254gam, mẫu G2: 0,259gam *Nguyên nhân, điều kiện: Do cần tiền tiêu xài và hám lợi, Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P đã mua bán trái phép chất ma tuý.
*Vật chứng:
Qua điều tra xác định, xe mô tô Exiter màu đen biển kiểm soát 43H1-124xx, số khung 457667, số máy 457673 do anh Đỗ Văn H1 (sinh năm: 1996, trú: Tổ 33, phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng) đứng tên chủ sở hữu mua năm 2009. Vào tháng 10 /2022, anh H1 bán xe cho cửa hàng xe máy cũ Hưng Thọ địa chỉ 81 Lý Thái Tổ, thành phố Đà Nẵng do anh Nguyễn Xuân T sinh năm: 1973, trú cùng địa chỉ) làm chủ. Ngày 23/12/2022, anh T bán xe cho ông Lê Minh V1 ( sinh năm: 1971, trú: Tổ 49, phường Hoà Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) là cha ruột của Lê Minh H. Vào khoảng tháng 3/2023, H mượn xe đi làm; ngày 03/4/2023, H sử dụng xe mô tô vào việc mua bán trái phép chất ma tuý và bị tạm giữ thì ông V1 không biết.
Mẫu vật hoàn trả sau khi kết luận giám định số 307/KL-KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Đà Nẵng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng số imei 354392064537007 gắn sim 0795.417xx (của H sử dụng cá nhân); 01 cân điện tử màu đen, 05 vỏ ni lông kích thước (02x02)cm và 05 vỏ bao ni lông kích thước (03x03)cm; 01 điện thoại Iphone màu trắng, số imei 013329007450198 gắn sim 0935.7803xx bị vỡ màn hình (H sủ dụng vào việc buôn bán trái phép chất ma tuý); 01 điện thoại Realme C11 màu xanh lá, số imei 1: 868970051025752, số imei 2: 868970051025745 gắn sim 1: 09050737xx và sim 2: 0762.5018xx (của Nguyễn Thanh P sử dụng cá nhân) và số tiền 1.050.000 đồng của Lê Minh H.
Tất cả vật chứng trên chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tạm thời quản lý theo quy định pháp luật.
Quá trình điều tra, Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình Tại bản Cáo trạng số 96/CT-VKS ngày 12/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự;
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo đã gây ra:
- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm b khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Minh H từ 3 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung Lê Minh H từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng - Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh Hương từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật hoàn trả sau khi kết luận giám định số 307/KL- KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Đà Nẵng;
05 vỏ ni lông kích thước (02x02)cm và 05 vỏ bao ni lông kích thước (03x03)cm;
- Tịch thu sung công quỹ: 01 cân điện tử màu đen, 01 điện thoại Iphone màu trắng, số imei 013329007450198 gắn sim 0935.7803xx bị vỡ màn hình (H sủ dụng vào việc buôn bán trái phép chất ma tuý);
- Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng số imei 354392064537007 gắn sim 0795.417xx (của H sử dụng cá nhân); 01 điện thoại Realme C11 màu xanh lá, số imei 1: 868970051025752, số imei 2: 868970051025745 gắn sim 1: 09050737xx và sim 2: 0762.5018xx (của Nguyễn Thanh P sử dụng cá nhân).
Trả lại xe mô tô Exiter màu đen biển kiểm soát 43H1-124xx, số khung 457667, số máy 457673 cho ông Lê Minh V1.
Đối với số tiền 1.050.000 đồng là tiền tiêu xài cá nhân của Lê Minh H nên trả lại cho Lê Minh H nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như quá trình tranh luận tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 20 giờ ngày 03/4/2023, tại trước số nhà K64/55 Trần Cao Vân, phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P có hành vi cất giấu trái phép ma tuý loại Methamphetamine với khối lượng 0,513 gam nhằm mục đích bán thì bị Đội CSĐT Tội phạm về ma tuý Công an quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng phát hiện bắt quả tang.
Hành vi phạm tội của các bị cáo Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P đã cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy" như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy:
Ma túy loại Methamphetamin, Heroin là những chất gây nghiện vô cùng nguy hiểm, khi sử dụng nó ảo giác, hưng phấn về nhận thức của con người, gây hại đến kinh tế, sức khỏe và tinh thần của con người làm suy thoái về đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân dẫn đến phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an xã hội và an ninh quốc gia. Vì vậy, Nhà nước đã quy định quản lý độc quyền và nghiêm cấm hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy. Các bị cáo là người trưởng thành, nhận thức rất rõ tác hại của ma túy đối với bản thân, cộng đồng và những hành vi cấm đoán của pháp luật đối với mọi hành vi phạm tội về ma túy. Các bị cáo biết rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng muốn có tiền tiêu xài và hám lợi nhuận có được từ việc mua bán ma túy các bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán trái phép số ma túy. Song do xem thường pháp luật, để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ của bản thân, các bị cáo vẫn bất chấp mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi của các bị cáo không chỉ xâm phạm đến việc quản lý độc quyền của nhà nước đối với chất gây nghiện, mà còn gây tổn hại đến sức khỏe và kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến trị an tại địa P nên hành vi phạm tội của các bị cáo phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hình sự mới đủ sức răn đe, cải tạo bị cáo đồng thời phòng ngừa chung cho xã hội.
Xét về vai trò của 02 bị cáo thì thấy: Trong vụ án có nhiều người tham gia nhưng giữa 02 bị cáo không có sự bàn bạc, phân công thống nhất từ trước trong việc mua bán ma túy nên vụ án chỉ mang tính chất đồng phạm giản đơn. Về vai trò bị cáo H là người khởi xướng, cũng là người chủ động đi mua ma túy và phân chia ma túy, liên hệ với con nghiện để bán ma túy, tích cực thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo P tham gia với vai trò giúp sức cùng bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo H có vai trò cao hơn bị cáo P. Ngoài ra, bị cáo H có nhân thân xấu từng bị xử phạt hành chính đi cai nghiện. Do đó, mức hình phạt của bị cáo H phải cao hơn mức hình phạt của bị cáo P và tương xứng với hành vi phạm tội mà mỗi bị cáo gây ra.
[4] Xét về những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo thì thấy:
- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối hận về hành vi sai trái của mình nên HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho các bị cáo.
[5] Xét nội dung đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh, mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[6] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật hoàn trả sau khi kết luận giám định số 307/KL- KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Đà Nẵng;
05 vỏ ni lông kích thước (02x02)cm và 05 vỏ bao ni lông kích thước (03x03)cm;
- Tịch thu sung công quỹ: 01 cân điện tử màu đen, 01 điện thoại Iphone màu trắng, số imei 013329007450198 gắn sim 0935.7803xx bị vỡ màn hình (H sủ dụng vào việc buôn bán trái phép chất ma tuý);
- Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng số imei 354392064537007 gắn sim 0795.417xx (của H sử dụng cá nhân); 01 điện thoại Realme C11 màu xanh lá, số imei 1: 868970051025752, số imei 2: 868970051025745 gắn sim 1: 09050737xx và sim 2: 0762.5018xx (của Nguyễn Thanh P sử dụng cá nhân).
Trả lại xe mô tô Exiter màu đen biển kiểm soát 43H1-124xx, số khung 457667, số máy 457673 cho ông Lê Minh V1.
Đối với số tiền 1.050.000 đồng là tiền tiêu xài cá nhân của Lê Minh H nên trả lại cho Lê Minh H;
Đối với Si là người bán ma tuý cho H và người phụ nữ là người hỏi mua ma tuý của H đến nay vẫn chưa xác định được nhân thân lai lịch. Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là có căn cứ nên không đề cập đến.
[9] Án phí hình sự sơ thẩm: các bị cáo Tôn Thất Hoàng Đạt phải chịu 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Lê Minh H : 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 03/4/2023.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thanh P : 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 03/4/2023.
- Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung Lê Minh H 5.000.000 đồng.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật hoàn trả sau khi kết luận giám định số 307/KL- KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Đà Nẵng;
05 vỏ ni lông kích thước (02x02)cm và 05 vỏ bao ni lông kích thước (03x03)cm;
- Tịch thu sung công quỹ: 01 cân điện tử màu đen, 01 điện thoại Iphone màu trắng, số imei 013329007450198 gắn sim 0935.7803xx bị vỡ màn hình (H sử dụng vào việc buôn bán trái phép chất ma tuý);
- Trả lại 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng số imei 354392064537007 gắn sim 0795.417xx (của H sử dụng cá nhân); 01 điện thoại Realme C11 màu xanh lá, số imei 1: 868970051025752, số imei 2: 868970051025745 gắn sim 1: 09050737xx và sim 2: 0762.5018xx (của Nguyễn Thanh P sử dụng cá nhân).
Trả lại xe mô tô Exiter màu đen biển kiểm soát 43H1-124xx, số khung 457667, số máy 457673 cho ông Lê Minh V1.
Tiếp tục quy trữ số tiền 1.050.000 đồng của Lê Minh H để đảm bảo thi hành án (Theo biên lai thu tiền số 0000819 ngày 25/7/2023 của Chi cục thi hành án quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/7/2023 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc các bị cáo Lê Minh H và Nguyễn Thị Thanh P mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
4. Án xử công khai bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 94/2023/HS-ST
Số hiệu: | 94/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về