Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 92/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 92/2023/HS-ST NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 186/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2023/QĐXXST-HS ngày 14/6/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 239/2023/HSST-QĐ ngày 30/6/2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thị C, giới tính: Nữ; tên gọi khác: Không; sinh ngày 10/01/1980 tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Khối B, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Nguyễn Công T, sinh năm 1954 và con bà Trần Thị T1, sinh năm 1957; anh, chị, em ruột có 4 người, bị can là con thứ hai trong gia đình; chồng: Hoàng Minh P, sinh năm 1977 và có 02 con, con thứ nhất sinh năm 2006, con thứ hai sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2022 đến nay, có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Hữu G, giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 10/7/1984 tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: K, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Nguyễn Hữu H, sinh năm: 1952 và con bà Vũ Thị T2, sinh năm 1957; anh, chị, em ruột: Có 2 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; có vợ: Trần Hân N, sinh năm 1983 (đã ly hôn), Chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2022 đến nay, có mặt.

3. Họ và tên: Hồ Minh T3, giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 16/10/1979 tại huyện Q, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Khối B, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Hồ Minh N1 (đã chết) và con bà Trần Thị M, sinh năm: 1948; anh, chị, em ruột: Có 3 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm: 1981 và có 1 con sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18/7/2013 bị Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 04/12/2014. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2022 đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị C: Luật sư Đặng Thị Hương L1 – Văn phòng luật sư Đặng Hương L1 - Đoàn Luật sư tỉnh N – có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Hồ Thị Minh A, sinh năm 2002 – vắng mặt. Nơi cư trú: Khối B, thị trấn Q, huyện Q, Nghệ An;

- Trương Xuân T4, sinh năm 1990, vắng mặt. Nơi cư trú: K, thị trấn Q, huyện Q, Nghệ An;

Người làm chứng:

- Anh Trương Văn V, sinh năm 1998 – vắng mặt. Nơi cư trú: Xóm T, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An;

- Hoàng Minh P, sinh năm 1977 – vắng mặt. Nơi cư trú: Khối B, thị trấn Q, huyện Q, Nghệ An;

- Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1978 – vắng mặt. Nơi cư trú: K, phường Q, thị xã T, tỉnh Nghệ An.

- Nguyễn Văn H2, sinh năm 1988 – vắng mặt. Nơi cư trú: Khối D, phường Q, thị xã T, Nghệ An.

- Nguyễn Thọ T5, sinh năm 1974 – vắng mặt. Nơi cư trú: K, thị trấn Q, huyện Q, Nghệ An;

- Nguyễn Thế H3, sinh năm 1986 – vắng mặt. Nơi cư trú: K, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An;

- Ngô Thị Q, sinh năm 1978 – vắng mặt. Nơi cư trú: Xóm Y, xã C, huyện Q, Nghệ An;

- Anh Nguyễn Công H4, sinh năm 1995 – vắng mặt. Nơi cư trú: Xóm T, xã N, huyện N, Nghệ An;

- Anh Nguyễn Công L2, sinh năm 1975 – vắng mặt. Nơi cư trú: Xóm T, xã N, huyện N, Nghệ An;

- Trương Văn B, sinh năm 1996 – vắng mặt. Nơi cư trú: Xóm T, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An;

- Mạc Thiên P1, sinh năm 1998 – vắng mặt. Nơi cư trú: Bản Bàng, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An;

- Anh Phan Văn Đ, sinh năm 1977 – vắng mặt. Nơi cư trú: K, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Nghệ An;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa tháng 5/2022, Nguyễn Thị C mua 1 bánh ma túy Heroine mục đích để chia nhỏ bán lẻ kiếm lời và cho chồng là Hoàng Minh P sử dụng. Sau khi mua được bánh Heroine, C đã sử dụng cân điện tử chia thành nhiều gói nhỏ cất dấu trong phòng để đồ của gia đình.

Khoảng 9h ngày 08/6/2022, Trương Văn V gọi điện thoại cho Nguyễn Hữu G để mua 500.000đồng Heroin và hẹn gặp nhau tại K, thị trấn Q để đưa tiền. Sau khi lấy 500.000đồng từ V, G liên lạc và đến nhà Nguyễn Thị C mua 1 gói H5 với giá 400.000đồng rồi đi đến K, thị trấn Q để giao gói ma túy Heroine cho V. Mua được ma túy, V đi đến K, thị trấn Q, huyện Q để sử dụng bằng hình thức chích thì bị Công an huyện Q phát hiện.

Khoảng 20h ngày 12/6/2022, Hồ Minh T3 liên lạc và mua của Nguyễn Thị C 1 gói ma túy Heroine với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T3 đưa về nhà sử dụng một ít, số còn lại T3 cất vào trong ví da của mình. Đến khoảng 8h ngày 13/6/2022, Nguyễn Công L2 (sinh năm 1975, trú tại xóm T, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An) gọi điện thoại cho T3 hỏi mua 300.000 đồng ma túy H5, T3 đồng ý và hẹn L2 đi lên đầu thị trấn Q, huyện Q. Khoảng 1 giờ sau, L2 đi cùng với con trai là Nguyễn Công H4 đến điểm hẹn. Một lúc sau, T3 chở Ngô Thị Q đến gặp L2 đưa gói ma túy Heroine cất ở ví da, L2 đưa cho T3 300.000 đồng, T3 trả lại cho L2 100.000 đồng với lý do số ma tuý quá ít. Nguyễn Công L2 cầm số ma tuý mua được đem về sử dụng bằng hình thức chích tại xóm L, xã T, huyện Q thì bị Công an huyện Q phát hiện.

Ngày 15/6/2022, Nguyễn Hữu G liên hệ và mua của Nguyễn Thị C 4 gói ma túy Heroine với tổng số tiền 1.200.000 đồng. G chia 4 gói ma túy Heroine thành 3 gói (2 gói lớn và 1 gói nhỏ hơn) sau đó G bán cho Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1978 và Nguyễn Văn H2, sinh năm 1988 (cả hai cùng trú tại phường Q, thị xã T, tỉnh Nghệ An) 1 gói ma túy Heroine với giá 500.000 đồng (Nguyễn Văn H2 là người trực tiếp mua ma túy); bán cho người đàn ông tên T4 ở xã C, huyện Q 1 gói ma túy Heroine với giá 200.000 đồng và bán cho 1 người đàn ông ở thị trấn Q, huyện Q 1 gói ma túy Heroine với giá 500.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 903/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 21/6/2022 của Phòng K Công an tỉnh N kết luận: “Chất bột màu trắng bám dính trên mặt cân điện tử thu giữ của Nguyễn Thị C gửi tới giám định là ma túy (Heroine)” Bản kết luận giám định số 904/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 21/6/2022 của Phòng K Công an tỉnh N kết luận: “Mẫu chất bột nén màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị C gửi tới giám định là ma túy (Heroine). Số chất bột nén màu trắng thu giữ của Nguyễn Thị C có khối lượng là 114,320g (một trăm mười bốn phẩy ba trăm hai mươi gam)” Bản kết luận giám định số 907/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 21/6/2022 của Phòng K Công an tỉnh N kết luận: “Dung dịch màu trắng đục bám dính trong bơm kim tiêm thu giữ của Nguyễn Công H4 gửi tới giám định là dung dịch ma tuý (dung dịch H)” Bản kết luận giám định số 908/KL-KTHS(Đ2-MT) ngày 21/6/2022 của Phòng K Công an tỉnh N kết luận: “Dung dịch màu trắng đục bám dính trong bơm kim tiêm thu giữ của Trương Văn V gửi tới giám định là dung dịch ma túy (Heroine)” Tại bản Cáo trạng số: 213/CT-VKS-P1 ngày 19 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã truy tố các bị cáo:

- Nguyễn Thị C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự;

- Nguyễn Hữu G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự;

- Hồ Minh T3 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng đã truy tố và đề nghị hội đồng xét xử:

Về tố tụng: Các bị cáo thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt nhưng phiên tòa đã hoãn nhiều lần, lời khai của họ đã có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về nội dung: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị C, Nguyễn Hữu G và Hồ Minh T3 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Thị C 20 năm tù.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Hữu G 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Hồ Minh T3 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Xử phạt bổ sung Nguyễn Thị C từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Nguyễn Hữu G và Hồ Minh T3 do có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 109,2 gam ma túy Heroine còn lại sau khi lấy mẫu đi giám định và vỏ bao bì niêm phong cũ;

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước các vật chứng dùng vào việc phạm tội như điện thoại, xe máy và số tiền do phạm tội mà có;

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng;

Trả lại các vật chứng không liên quan đến việc phạm tội.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị C trình bày: Thống nhất về tội danh như Viện kiểm sát đã truy tố. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải. Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên mới thực hiện hành vi phạm tội. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt và không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Các bị cáo thống nhất lời bào chữa không bổ sung gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh N, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An; hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng được ban hành đúng quy định, đúng thẩm quyền.

[2] Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng giữa tháng 5/2022, Nguyễn Thị C mua ma túy (Heroine) để nhằm mục đích bán lẻ kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, C dùng cân điện tử chia ra nhiều gói nhỏ và cất dấu trong nhà.

Ngày 08/6/2022, Nguyễn Thị C bán cho Nguyễn Hữu G 1 gói ma túy (H) với giá 400.000 đồng. G bán lại gói ma túy này cho Trương Văn V với giá 500.000 đồng.

Khoảng 20h ngày 12/6/2022, Nguyễn Thị C bán cho Hồ Minh T3 1 gói ma túy (H) với giá 300.000 đồng. T3 sử dụng 1 phần, số ma túy còn lại T3 bán cho Nguyễn Công L2 với giá 200.000 đồng vào ngày 13/6/2022.

Vào ngày 15/6/2022, Nguyễn Hữu G mua của Nguyễn Thị C 4 gói ma túy (H) với số tiền 1.200.000 đồng. G chia 4 gói ma túy này thành 3 gói và bán cho Nguyễn Văn H2 1 gói ma túy Heroine giá 500.000 đồng, bán cho 2 người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ 2 gói Heroine với số tiền 700.000 đồng.

Ngày 15/6/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thị C, thu giữ 114,32 gam ma túy Heroine.

Hành vi của Nguyễn Thị C đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 4, Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của Nguyễn Hữu G đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của Hồ Minh T3 đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1, Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn. Làm ảnh hưởng lớn sự phát triển thể chất, sức khỏe con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương, ảnh hưởng đến công cuộc đấu tranh phòng chống ma túy bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy phải xử mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Bị cáo Nguyễn Thị C đã thực hiện hai hành vi phạm tội là bán ma túy cho Nguyễn Hữu G và Hồ Minh T3, đây là tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Thị C, Nguyễn Hữu G và Hồ Minh T3 đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Nguyễn Hữu G có bố đẻ (ông Nguyễn Hữu H) được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì và được UBND tỉnh Q tặng Kỷ niệm chương, Hồ Minh T3 có mẹ đẻ (bà Trần Thị M) được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, nên G và T3 được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với các bị cáo.

[4] Hình phạt bổ sung: Đối với Nguyễn Thị C đã mua 01 bánh Heroin về bán lẻ cho nhiều đối tượng, không nhớ là ai, cơ quan điều tra không chứng minh được số ma túy đã bán mà chỉ thu giữ được 114,32gam Heroin. Điều kiện kinh tế của bị cáo có khả năng thi hành án. Do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo từ 30 triệu đồng đến 40 triệu đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Nguyễn Hữu G và Hồ Minh T3 do có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

[5] Trong vụ án này, Nguyễn Thị C khai nguồn gốc số Heroine là do C mua của Trương Xuân T4 vào thời điểm giữa tháng 5/2022 với giá 243.000.000 đồng. Cơ quan Điều tra Công an huyện Q đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Trương Xuân T4, sinh năm 1990, trú tại K, thị trấn Q, huyện Q. Quá trình đấu tranh, T4 khai nhận không biết và không liên quan đến việc mua bán ma túy của Nguyễn Thị C. Ngoài lời khai của Nguyễn Thị C thì không có chứng cứ nào khác khẳng định T4 đã bán ma túy cho C nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q đã trả tự do đối với Trương Xuân T4. Hiện nay T4 không có mặt tại địa phương, không biết đi đâu làm gì nên chưa có căn cứ để xem xét xử lý đối với T4 trong vụ án này.

Đối với Hoàng Minh P, sinh năm 1977 (là chồng của Nguyễn Thị C), qua điều tra xác định P không biết và không tham gia việc mua bán trái phép chất ma túy với C nên không cấu thành tội phạm.

Đối với Nguyễn Công H4 và Trương Văn V là những người mua ma túy của Nguyễn Hữu G và Hồ Minh T3 để sử dụng. Ngày 24/6/2022, Công an huyện Q đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Đối với Ngô Thị Q là người đi cùng Hồ Minh T3 vào sáng ngày 13/6/2022 khi T3 bán ma túy cho Nguyễn Công L2, do T3 không trao đổi và Q không biết việc T3 bán ma túy nên không cấu thành tội phạm.

Đối với Nguyễn Thanh H1, Nguyễn Văn H2 và Nguyễn Công L2 là những người mua ma túy về để sử dụng. Do H1, H2, L2 đã sử dụng hết số ma túy nên không đủ căn cử để xử lý.

Đối với Nguyễn Thế H3 là người đã bán ma túy cho Trương Văn B, Mạc Văn P2 và mua ma túy của Nguyễn Thị C để sử dụng. Ngày 23/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Q đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với H3 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong một vụ án khác nên không xem xét trong vụ án này. Trương Văn B và Mạc Văn P2 là người mua ma túy của H3, đã được xử lý trong vụ án cùng với Nguyễn Thế H3.

Đối với 2 người đàn ông đã mua ma túy của Nguyễn Hữu G vào ngày 15/6/2022, G khai 1 người tên là T4 khoảng 40 tuổi, nhà ở xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An còn 1 người G khai ở thị trấn Q nhưng không rõ tên, tuổi, quá trình điều tra xác minh, trên địa bàn xã C không có người nào có đặc điểm như trên nên không có căn cứ để xử lý.

[6] Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật hình sự.

- 1 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, màu sơn đỏ mận, biển kiểm soát 37H1- X, xe đã qua sử dụng chủ sở hữu là của Hồ Thị Minh A. Hồ Thị Minh A cho Hồ Minh T3 mượn xe và không biết T3 sử dụng chiếc xe này để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Hồ Thị Minh A là có căn cứ;

- Số tiền 74.817.000 đồng; 1 chiếc đầu thu nhãn hiệu Ahua, màu đen, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án nên Cơ quan án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Nguyễn Thị C qua người được uỷ quyền là Hoàng Minh Duy M1 nhận là có căn cứ.

Tịch thu số tiền Nguyễn Thị C phạm tội mà có gồm: Bán ma túy cho G 1.200.000 đồng, bán cho G 400.000 đồng, bán cho T3 300.000 đồng. Trả lại cho Nguyễn Thị C 4.000.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tịch thu số tiền Nguyễn Hữu G phạm tội mà có gồm: Bán ma túy cho H1 500.000 đồng, bán cho T4 200.000 đồng và một người không rõ họ tên, địa chỉ 500.000 đồng.

Truy thu tại Nguyễn Hữu G 500.000 đồng do bán ma túy cho Trương Văn V mà có.

Truy thu số tiền Hồ Minh T3 bán ma túy cho L2 200.000 đồng.

Tịch thu các vật chứng là điện thoại di động dùng vào việc phạm tội đang còn giá trị sử dụng sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại C110, màu sơn đỏ- đen, biển kiểm soát 48C1- X, bị cáo Nguyễn Hữu G sử dụng làm phương tiện đi lại khi phạm tội, lẽ ra phải tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Nhưng, khi thu giữ không có giấy tờ xe, theo bị cáo khai nhận đã mua qua mạng của người không quen biết, không có giấy tờ mua bán. Cơ quan điều tra chưa xác minh làm rõ nguồn gốc, chủ sở hữu chiếc xe nên không có căn cứ để tịch thu mà giao lại cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo thẩm quyền.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi đã lấy đi giám định còn lại và các vật chứng liên quan đến vụ án không còn giá trị sử dụng.

Trả lại cho bị cáo, người liên quan vật chứng không liên quan đến vụ án.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Thị C 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/6/2022.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Hữu G 07 (B1) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/6/2022.

- Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Hồ Minh T3 02 (H6) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/6/2022.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự Xử phạt bổ sung đối với Nguyễn Thị C 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng để sung vào ngân sách Nhà nước. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Nguyễn Hữu G và Hồ Minh T3.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật hình sự.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 cân điện tử nhãn hiệu “GHL POCKET SCALE” màu đen, đã qua sử dụng; 1 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, đã qua sử dụng, số imei 352182861151603 thu giữ của Nguyễn Thị C;

Trả lại cho Nguyễn Thị C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đã qua sử dụng, số imei 357332561132206; 1 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 5310, màu trắng - đỏ - đen, đã qua sử dụng, số imei 357740102709946; 1 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, đã qua sử dụng, số imei 352850790377255;

Tịch thu tiêu hủy 01 que test thử ma túy đối với Nguyễn Hữu G có kết quả Âm tính;

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, số imei 357748104004380 (thu giữ của Nguyễn Hữu G).

Giao lại cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh N 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại C110, màu sơn đỏ - đen, biển kiểm soát 48C1- X, xe đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Hữu G để tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý theo thẩm quyền;

Trả lại cho Nguyễn Hữu G 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6plus, màu vàng đồng, đã qua sử dụng, số imei 354377064269008;

Tịch thu tiêu hủy 01 que test thử ma túy đối với Hồ Minh T3 có kết quả Dương tính; 3 mảnh giấy bên trên có in nhiều chữ viết và chữ số;

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, đã qua sử dụng, số imei 352415901484158 và 01 chiếc ví da đã qua sử dụng thu giữ của Hồ Minh T3;

Trả lại cho Hồ Minh T3 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng gold, đã qua sử dụng, số imei 358625071381975;

Tịch thu tiêu hủy 01 que test thử ma túy đối với Trương Xuân T4 có kết quả Âm tính;

Trả lại cho Trương Xuân T4 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13, màu xanh, đã qua sử dụng, số imei 358288944752236; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, màu ghi đã qua sử dụng, số imei 359478087963018;

- Tịch thu tiêu hủy 01 que test thử ma túy đối với Nguyễn Công H4 có kết quả Dương tính; 01 mảnh giấy màu trắng và hồng, bên trên có in nhiều chữ viết và chữ số; 01 bơm kim tiêm đã giám định có chất ma túy bám dính (thu giữ của Nguyễn Công H4); 01 que thử ma túy đối với Trương Văn V có kết quả Dương tính; 01 bơm kim tiêm đã giám định có chất ma túy bám dính; 01 mảnh giấy màu trắng và vàng (thu giữ của Trương Văn V).

Các vật chứng hiện đang tạm giữ tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An, có đặc điểm được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/10/2022 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh N với Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

- Truy thu sung vào ngân sách Nhà nước của Hồ Minh T3 200.000 đồng do phạm tội mà có.

- Truy thu của Nguyễn Hữu g 500.000 đồng số tiền do phạm tội mà có.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 1.200.000 đồng thu giữ của Nguyễn Hữu G (đang niêm phong tại túi niêm phong số NS3-2034809)

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước của Nguyễn Thị C số tiền 1.900.000 đồng do phạm tội mà có.

Trả lại cho Nguyễn Thị C 4.000.000 đồng không liên quan đến vụ án.

(Số tiền thu giữ của Nguyễn Thị C 5.900.000 đồng, đang niêm phong tại túi niêm phong số NS3-2034808) Số tiền trong túi niêm phong hiện đang tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước N2 theo Biên bản giao nhận vật chứng số 43/2022/BBBG-KBNA(VNĐ) ngày 01/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh N và Kho bạc Nhà nước N2.

4. Án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án;

Buộc các bị cáo Nguyễn Thị C, Nguyễn Hữu G và Hồ Minh T3 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 92/2023/HS-ST

Số hiệu:92/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về