Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 92/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 92/2021/HS-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 100/2021/TLST- HS ngày 25 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức T, sinh năm 1980 tại Hà Nội; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn TH, xã BH, huyện ĐA, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Đức L và bà Nguyễn Thị V; Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; Vợ Ngô Thị Kim K, có 03 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Theo Danh chỉ bản số 000000062 lập ngày 04/1/2021 của Công an huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội bị cáo có 01 tiền án: Ngày 24/12/2003, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số 118/2003/HSST). Án tích đã được xóa.

Tiền sự: 07 tiền sự ngoài thời hiệu về các hành vi: Trộm cắp tài sản; Sử dụng trái phép chất ma túy; Đưa vào cơ sở giáo dục; Cai nghiện bắt buộc và Xâm hại sức khỏe của người khác vào các năm: 2002, 2003, 2007 và 2019.

Tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2020 đến nay tại Trại tạm giam số 01 - Công an thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Ngô Thúy B, sinh năm 1980; nơi cư trú: Thôn V, xã NH, huyện ĐA, thành phố Hà Nội; Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Nguyễn Đình T1, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn K, xã VH, huyện ĐA, thành phố Hà Nội; Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 30/12/2020, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - huyện Đông Anh phối hợp cùng Công an xã BH – Công an huyện Đông Anh làm nhiệm vụ tại thôn TH, xã BH, huyện ĐA, Hà Nội phát hiện Ngô Thúy B (Sinh năm: 1980; Nơi cư trú: Thôn V, xã NH, huyện ĐA, Hà Nội) và Nguyễn Đình T1 (Sinh năm: 1986; Nơi cư trú: Thôn K, xã VH, huyện ĐA, Hà Nội) đang ngồi trong nhà chờ của nghĩa trang thôn TH có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện và thu giữ trên nền nhà chờ gần nơi T1 và B ngồi có 02 (hai) mảnh nilon màu đen (kích thước lần lượt 5x7cm, 8x10cm) đều đã qua sử dụng; 01 mảnh giấy bạc, kích thước 3x29cm đã qua sử dụng; 01 vỏ chai nhãn hiệu Lavie, trên nắp chai có gắn 03 đoạn ống hút bằng nhựa và 01 bật lửa ga. B và T1 khai là dụng cụ sử dụng ma túy, cả hai vừa sử dụng ma túy xong. Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng rồi đưa các đối tượng về trụ sở để tiếp tục làm việc.

Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của B: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp sim số 0356789338.

Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Đông Anh đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số vật chứng thu giữ của B và T1. Tại bản Kết luận giám định số 314/KLGĐ-PC09 ngày 07/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

- 01 mảnh giấy bạc, kích thước (03x29)cm có dính ma túy loại Methamphetamine.

- 02 mảnh nilon màu đen kích thước (5x7)cm và (10x8)cm đều không dính chất ma túy.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đình T1 và Ngô Thúy B đều khai: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 08 giờ 45 phút ngày 30/12/2020, B cùng T1 đi đến nhà một người đàn ông tên T, ở thôn TH, xã BH, huyện ĐA, Hà Nội để mua ma túy. Khi đến nhà T gặp T thì B đặt vấn đề mua 500.000đồng ma túy đá còn T1 đặt vấn đề mua 300.000đồng ma túy đá và 200.000đồng ma túy “ngựa”, T đồng ý. Sau đó B và T1 mỗi người đưa cho Thành 500.000đồng. Sau khi cầm tiền của B và T1, T đi ra ngoài khoảng 01 giờ đồng hồ sau thì quay về nhà và gọi B cùng T1 vào trong buồng ngủ nhà T để giao ma túy. Tại đây, T lấy từ trong miệng ra 01 bọc nilon màu đen rồi bóc ra đưa cho T1 01 gói nilon màu đen chứa ma túy đá và ma túy ngựa, đưa cho B 01 gói nilon màu đen chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy, B và T1 đi về khu vực nghĩa trang thôn TH, xã BH để cùng nhau sử dụng. Khi cả hai vừa sử dụng hết ma túy thì lực lượng Công an phát hiện.

Ngoài lần mua ma túy ngày 30/12/2020 của T bị phát hiện thì trước đó, B và T1 cũng đến nhà T để mua ma túy của T, cụ thể: Vào khoảng 14 giờ ngày 27/12/2020, B và T1 mỗi người góp 250.000đồng rồi đi đến nhà Thành ở thôn TH, xã BH, huyện ĐA, Hà Nội gặp và mua của T 01 gói ma túy đá với giá 500.000đồng để cùng nhau sử dụng. Lần này trước khi đến nhà T thì B là người gọi điện hỏi mua ma túy của T. Khi đến sân nhà Thành thì T1 là người đưa tiền và nhận ma túy của T.

Căn cứ lời khai của B và T1 cùng các tài liệu điều tra thu thập được, ngày 30/12/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Đông Anh đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức T tại thôn TH, xã BH, huyện ĐA, Hà Nội. Tại thời điểm khám xét có T đang ở nhà. Kết quả phát hiện thu giữ:

- Tại phòng khách tầng 1 nhà ở Nguyễn Đức T:

+ Trên mặt bàn uống nước phòng khách phát hiện: Bên trong một lọ gỗ đựng tăm có 01 gói nilon màu trắng, KT (0,5x0,5)cm chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng; Bên trong một lọ thủy tinh có 01 mảnh viên nén màu hồng.

+ Trên nền nhà gần vị trí Nguyễn Đức T đứng phát hiện 480.000đồng.

- Tại trong phòng ngủ phát hiện:

+ Trên đầu giường ngủ có 02 điện thoại di động đều có gắn sim (bao gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, bên trong lắp sim số 0988567180; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0369521247).

+ Trong 01 hộp nhựa cạnh đầu giường có 45 vỏ túi nilon màu trắng, đều KT (5x8)cm chưa qua sử dụng.

+ Trên nóc tủ đựng quần áo phát hiện 01 khẩu súng dài 1,1m; nòng súng bằng kim loại; báng súng bằng gỗ.

- Tại phòng ngủ tầng 2 nhà ở của Nguyễn Đức T: Trong hốc quạt gió có 01 túi nilon màu trắng, KT (1,5x1,5)cm bên trong chứa chất bột màu trắng.

- Thu giữ trong người của T có: 01 túi nilon màu trắng, KT (4x6)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilon màu trắng, KT (1,5x1,5)cm bên trong chứa 05 viên nén hình tròn màu hồng và nửa viên nén màu hồng; Số tiền 500.000đồng.

Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản tạm giữ, niêm phong sau đó đưa T về trụ sở để tiếp tục làm rõ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Đông Anh ra Quyết định trưng cầu giám định số vật chứng thu giữ của T.

* Tại bản kết luận giám định số 329/KLGĐ-PC09 ngày 07/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

- Đối với số tang vật thu giữ trên người T:

+Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 1,710 gam.

+ 05 viên nén và nửa viên nén màu hồng bên trong 01 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,487gam.

- Đối với số tang vật thu giữ tại nơi ở của Thành:

+ 01 viên nén màu hồng và 01 mảnh viên nén màu hồng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,135gam.

+ Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,073gam * Tại bản kết luận giám định số 283/C09-P3 ngày 29/01/2021 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: Khẩu súng gửi giám định là súng bắn đạn gém cỡ 32, thuộc vũ khí có tính năng, tác dụng như súng săn, không phải vũ khí quân dụng.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, ban đầu tại các lời khai từ ngày 30/12/2020 đến ngày 07/01/2021 Nguyễn Đức T không thừa nhận hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Đình T1 và Ngô Thúy B. Sau đó, T thay đổi lời khai, thừa nhận hành vi bán trái phép chất ma túy cho B và T1 vào ngày 30/12/2020 phù hợp với lời khai của Nguyễn Đình T1 và Ngô Thúy B và khai: Nguồn gốc số ma túy bán cho B và T1 ngày 30/12/2020 và số ma túy bị thu giữ là do T mua của một người đàn ông (không quen biết) tại khu vực gầm cầu QL 18 thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội vào sáng ngày 30/12/2020 và trước đó khoảng 04 ngày. Sau khi bán số ma túy đá và ma túy ngựa cho B và T1 vào sáng ngày 30/12/2020, T đã sử dụng hết một phần ma túy đá và một nửa viên ma túy ngựa. Số ma túy còn lại T cất giấu ở trong người và ở nhà để sử dụng và bán cho khách để kiếm lời. Đến tối cùng ngày khi T đang ở nhà thì Công an đến khám xét và thu giữ số ma túy mà của T cất giấu. Ngày 30/12/2020 là lần đầu tiên T bán ma túy cho B và T1. T không bán ma túy cho B và T1 vào ngày 27/12/2020.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho T, do T khai không quen biết nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ.

Về nguồn gốc 01 khẩu súng dài 110cm (không phải là vũ khí quân dụng) thu giữ tại phòng ngủ của Nguyễn Đức T, Thành khai là của T và khai: T mua của một người đàn ông không quen biết, ở khu vực Vĩnh Phúc khoảng 8 năm trước. Mục đích mua về là trưng bày tại nhà và chưa sử dụng bao giờ.

Về việc T không thừa nhận đã bán trái phép chất ma túy cho B và T1 vào chiều ngày 27/12/2020 tại nhà của T. Nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm: Biên bản ghi lời khai và bản kiểm điểm của B và của T1 (BL: 131 – 131 – 139; 144 - 152) đều phù hợp với nhau và phù hợp với: Kết quả thu giữ điện tín đối với số thuê bao của T (BL: 49 - 52), Biên bản kiểm tra điện thoại của T và B (Bl: 43, 130 ), Biên bản dẫn giải, sơ đồ dẫn giải B và T1 (BL: 153, 154; 165 - 168). Do vậy có đủ căn cứ để xác định Nguyễn Đức T có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Ngô Thúy B và Nguyễn Đình T1 vào ngày 27/12/2020 tại nhà của T ở thôn TH, xã BH, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Ngô Thúy B và Nguyễn Đình T1, xét chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Đông Anh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với B và T1 với hình thức Cảnh cáo.

Đối với hành vi tàng trữ 01 khẩu súng có tính năng, tác dụng như súng săn, không phải vũ khí quân dụng của Nguyễn Đức T. Ngày 22/4/2021, UBND huyện Đông Anh ra Quyết định Xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi Tàng trữ vũ khí thô sơ không có giấy phép bằng hình thức Phạt tiền và tịch thu tang vật để tiêu hủy theo quy định.

Tại cáo trạng số 94/CT-VKS ngày 18/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã truy tố: Nguyễn Đức T tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).

Tại phiên tòa, Bị cáo Nguyễn Đức T khai nhận tội như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 251; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), xử phạt: Nguyễn Đức T từ 8 năm đến 8 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước các điện thoại di động thu giữ của các bị cáo và các đối tượng liên quan dùng vào việc liên lạc để mua bán ma túy. Không phạt tiền các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Đông Anh thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố và xét xử.

[2]. Về hành vi và tội danh: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các đối tượng liên quan, được thẩm tra tại phiên tòa. Được chứng minh bằng các vật chứng của vụ án và số Heroine thu giữ của bị cáo. Hành vi của bị cáo Nguyễn Đức T ngày 27, 30/12/2020 đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

...

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;”

[3]. Về nhân thân, tiền án, tiền sự và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

- Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Đức T có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và 07 tiền sự, các tiền án, tiền sự của bị cáo đã được xóa án tích và ngoài thời hiệu. Bị cáo Nguyễn Đức T được coi như chưa có tiền án tiền sự nhưng xác định bị cáo có nhân thân xấu.

- Về tiền án, tiền sự: Xác định bị cáo coi như chưa bị kết án và có tiền sự.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình, Tòa án đã xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để từ đó có hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể:

+ Tình tiết tăng nặng: Không có.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Nguyễn Đức T thành khẩn khai báo, có bố đẻ tham gia kháng chiến chống Mỹ được tặng bằng khen. Đây là các tình tiết giảm nhẹ, cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về hình phạt:

- Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách đặc quyền quản lý của Nhà nước về các chất độc hại được pháp luật bảo V, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hại cho xã hội và bị Nhà nước quy định là tội phạm, bị cáo Nguyễn Đức T nhận thức được ma túy là chất độc dược gây nghiện, nó hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội trong đó có HIV/AIDS và các tội phạm khác nhưng vì tư lợi bị cáo đã liều lĩnh mua bán chất ma túy là loại chất do Nhà nước độc quyền quản lý. Đây là vụ án mua bán trái phép chất ma túy mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn huyện Đông Anh cần xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm hạn chế các loại tội phạm ma túy trên địa bàn huyện Đông Anh nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung. Do đó, áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự để xử phạt tù có thời hạn với bị cáo, xử phạt bị cáo hình phạt tù trong khung hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, thì người phạm tội có thể còn bị phạt tiền…Tuy nhiên, xét trong trường hợp này các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5]. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo.

Đối với các điện thoại di động thu giữ của bị cáo và các đối tượng liên quan dùng vào việc liên lạc để mua bán ma túy cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước là đúng với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điểm b, c Khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cùng danh mục kèm theo.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

Nguyễn Đức T: 07 (bẩy) năm 6 tháng (sáu) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2020.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có tổng khối lượng là 2,020 gam đều là ma túy loại Methamphetamine, 01 phong bì niêm phong bên trong có tổng khối lượng là 0,101 gam ma túy loại Methamphetamine và 0,061gam ma túy loại hêrôin tất cả đều có chữ ký niêm phong của Nguyễn Đức T, giám định viên và cán bộ niêm phong; 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 01 mảnh giấy bạc dính ma túy loại Methamphetamine và 02 mảnh nilon màu đen có chữ ký của Ngô Thúy B, Nguyễn Đình T1, giám định viên và cán bộ niêm phong; 01 bật lửa ga; 45 vỏ túi nilon chưa qua sử dụng; 01 bộ sử dụng ma túy tự chế.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, bên trong lắp sim số 0988567180; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, bên trong lắp sim số 0369521247); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp sim số 0356789338.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/5/2021 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh).

Bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn ) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chỉ có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 92/2021/HS-ST

Số hiệu:92/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về