TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 851/2023/HS-PT NGÀY 14/11/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 938/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn C và bị cáo khác phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2023/HSST ngày 27/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Văn C, sinh năm 1986; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;
Nơi ĐKNKTT: thôn Dĩnh Tân, xã Tân D, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang;
Nơi ở: thôn Tiên La, xã Đức G, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn S, sinh năm 1956; Con bà: Lê Thị Đ, sinh năm 1959; Vợ: Đặng Thị N, sinh năm 1988 (đã ly hôn); Con: Bị cáo có 2 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; Gia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ 2;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. (Có mặt tại phiên tòa).
2. Vi Hồng P, sinh năm 1989; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;
Nơi ĐKNKTT và nơi ở: Khu M, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hoá: 12/12; Con ông: Vi Xuân N1 (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; Vợ, con: Chưa có; Gia đình có 3 anh chị em, bị cáo là con thứ 3; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 18/02/2013, bị Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.
Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. (có mặt tại phiên tòa)
- Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn C1 do Toà án chỉ định: Luật sư Giáp Thị V - thuộc văn phòng L1- Đoàn luật sư tỉnh B. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Vi Hồng P do Tòa án chỉ định: Luật sư Nguyễn Văn N2 thuộc Văn phòng L2- Đoàn luật sư tỉnh B. Có mặt.
Ngoài ra trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 13 giờ 10 phút ngày 17/12/2022, tại khu vực đường gom dân sinh thuộc Tổ dân phố N, thị trấn N, huyện V, tỉnh Bắc Giang, Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh B phối hợp với Phòng Cảnh sát giao thông, Phòng K và Công an thị trấn N, huyện V phát hiện 02 nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Nam thanh niên mặc áo trắng đưa cho nam thanh niên mặc áo tối màu đi xe mô tô biển kiểm soát 98M1- X một túi da có quai đeo, người này cầm túi và điều khiển xe mô tô đi đến gần chiếc taxi biển kiểm soát 98A-X đang đỗ cách đó khoảng 40m thì dừng lại và lên xe taxi. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, người mặc áo trắng khai tên là Vi Hồng P. P khai vừa đưa cho người tên C1 01 túi da bên trong có 01 hộp giấy đựng 30 túi ma túy hồng phiến để C1 đi bán cho khách. Kiểm tra xe ô tô biển kiểm soát 98A-X, tại hàng ghế phía sau ghế phụ có 01 nam thanh niên khai tên là Nguyễn Văn C, còn 01 người phụ nữ mặc áo màu đen nhưng đã bỏ chạy thoát. Trên mặt ghế cạnh chỗ C ngồi có 01 hộp giấy, bên ngoài được dán nhiều lớp băng dính, bên trong đựng nhiều túi nilon màu xanh và màu hồng nghi đựng ma túy. C khai không biết hộp giấy này là của ai. Tổ công tác tiến hành niêm phong tại chỗ số vật chứng nghi là ma túy vào trong hộp bìa catton và đưa các đối tượng về Công an thị trấn Nếnh để làm việc.
Tiến hành mở niêm phong kiểm tra vật chứng thấy: Trong 01 hộp giấy có nhiều chữ và hình ảnh điện thoại, bên ngoài được dán bằng băng dính màu trắng, bên trong hộp giấy đựng:
- 05 túi nilon được quấn với nhau bằng dây chun nịt, một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, trong đó có 04 túi nilon màu xanh và 01 túi nilon màu hồng, bên trong mỗi túi đều đựng các viên nén màu hồng đỏ và màu xanh.
- 01 gói được bọc bằng giấy màu trắng, băng dính, túi nilon màu trắng, một đầu bị rách hở, bên trong đựng 05 túi nilon được quấn với nhau bằng dây chun nịt, một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa bằng nhựa, trong đó có 04 túi nilon màu xanh và 01 túi nilon màu hồng, bên trong mỗi túi đều đựng các viên nén màu hồng đỏ và màu xanh.
- 02 gói được bọc bằng giấy màu trắng, băng dính, túi nilon màu trắng, trên mỗi gói đều có chữ “A” màu xanh, bên trong mỗi gói giấy đều chứa 02 bọc, mỗi bọc đều được quấn với nhau bằng dây chun nịt, trong mỗi bọc đều có 04 túi nilon màu xanh và 01 túi nilon màu hồng, một đầu của mỗi túi đều có rãnh khóa nhựa, bên trong của mỗi túi đều đựng các viên nén màu hồng đỏ và màu xanh.
Tất cả được niêm phong lại trong hộp bìa cát tông dán kín ký hiệu “QT1”.
Ngoài ra còn thu giữ những đồ vật, tài sản sau:
- Thu giữ của Nguyễn Văn C: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 98M1-X; 2.400.000 đồng; 01 ví da màu nâu bên trong có: 01 đăng ký xe mô tô, biển kiểm soát 98M1-X; 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Văn C; 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu đen, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy màu đen.
- Thu giữ trên xe ô tô, biển kiểm soát 98A-X: 01 túi da màu nâu đỏ có quai đeo, bên trong đựng 01 ví da, trong ví da có: 01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ngân hàng V1, 01 thẻ ngân ngành MB đều mang tên Vi Hồng P.
- Thu giữ của P: 01 điện thoại di động Iphone 6s plus.
- Thu giữ của anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1986, trú tại Tổ dân phố C, phường T, thành phố B (là lái xe taxi): 01 xe ô tô biển kiểm soát 98A-X; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe; 01 sổ chứng nhận kiểm định; 01 giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh; 01 điện thoại di động Redmi .
Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn C, thu giữ 01 sổ hộ khẩu, 01 hộ chiếu đều mang tên Nguyễn Văn C và 02 giấy phép liên vận chuyển Việt Nam- Lào. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Vi Hồng P, nhưng không thu giữ đồ vật, tài sản gì .
Tại Kết luận giám định số 2263 ngày 22/12/2022 của Phòng K công an tỉnh B kết luận: Trong 01 hộp bìa cát tông ký hiệu “QT1” đã được niêm phong gửi giám định: Trong 01 hộp giấy có nhiều chữ và hình ảnh điện thoại, bên ngoài được dán bằng băng dính màu trắng:
- Các viên nén màu hồng đỏ và màu xanh (đựng trong 05 túi nilon được quấn với nhau bằng dây chun nịt) đều là ma túy, có tổng khối lượng 74,55 gam, loại Methamphetamine.
- Trong 01 gói được bọc bằng giấy màu trắng, bên ngoài được bọc túi nilon và băng dính màu trắng, một đầu bị rách hở: Các viên nén màu hồng đỏ và màu xanh (đựng trong 05 túi nilon được quấn với nhau bằng dây chun nịt) đều là ma túy, có tổng khối lượng 59,50 gam, loại Methamphetamine.
- Trong 02 gói được bọc bằng giấy màu trắng, trên mỗi gói đều có chữ “A” màu xanh, bên ngoài được bọc túi nilon và băng dính màu trắng: Các viên nén màu hồng đỏ và màu xanh (đựng trong 20 túi nilon, trong đó có 16 túi nilon màu xanh và 04 túi nilon màu hồng) đều là ma túy, có tổng khối lượng 283,50 gam, loại Methamphetamine.
Tổng khối lượng chất ma túy đựng trong 30 túi nêu trên là 417,55 gam, trung bình 01 túi có khối lượng 13,918 gam. Đây là cơ sở để xác định khối lượng các túi ma túy cùng loại không thu giữ được.
Kết quả điều tra xác định Nguyễn Văn C và Vi Hồng P đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy như sau:
Khoảng ngày 12/12/2022, Nguyễn Văn C đem 30 túi ma túy hồng phiến được đựng trong 01 hộp giấy đến nhà V2 đưa cho P nhờ cất giữ hộ, có ai mua thì bán. P đồng ý cất giữ số ma túy này nhưng chưa bán được cho ai. Buổi sáng ngày 17/12/2022, C sử dụng số điện thoại 0977468X gọi điện vào số 0961616X của P bảo mang số ma túy trên xuống tỉnh Bắc Giang đưa cho C để bán cho khách. P lấy hộp giấy chứa ma túy hồng phiến để vào trong túi da của mình rồi bắt xe khách đi đến khu vực cầu vượt Q, thuộc địa phận tổ dân phố N, thị trấn N, huyện V thì xuống xe. Lúc này khoảng 13 giờ cùng ngày, P gặp và đưa cho C chiếc túi da chứa ma túy. C cầm túi da do P đưa cho rồi điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 98M1-X đi đến đỗ ở sau xe ô tô taxi, biển kiểm soát 98A-X (cách vị trí P đứng khoảng 40m) rồi cầm túi da chứa ma tuý lên xe taxi. Khi C đang giao dịch mua bán ma túy với một người phụ nữ trên xe taxi thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang; người phụ nữ đã mở cửa xe chạy thoát. Vi Hồng P cũng bị lực lượng Công an khống chế, bắt giữ.
Ngoài ra, kết quả điều tra còn xác định trước đó Nguyễn Văn C và Vi Hồng P còn thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý như sau:
Buổi trưa ngày 25/11/2022, C lái xe ô tô gần đến nhà P thì dừng lại và gọi điện bảo P ra rồi đưa cho P 01 bọc nilon bên trong đựng 14 túi ma tuý hồng phiến nhờ P cất hộ. P đồng ý rồi đem số ma tuý trên về nhà cất giấu ở trong tủ quần áo của mình. Đến khoảng 21 giờ ngày 26/11/2022, C nhắn tin qua zalo cho P số điện thoại 0876434X của người phụ nữ tên T2; sau đó C gọi điện thoại bảo P mang 14 túi ma tuý hồng phiến xuống tỉnh Bắc Giang liên hệ với T2 theo số điện thoại do C gửi để bán cho T2 với giá 70 triệu đồng (5 triệu đồng/ túi), P đồng ý. Đến trưa ngày 27/11/2022, P liên lạc với T2 và hẹn giao ma tuý ở khu vực cầu vượt Q, thị trấn N, huyện V. Khoảng 13 giờ cùng ngày, P đến điểm hẹn và giao cho T2 14 túi ma tuý, T2 đưa cho P 70 triệu đồng tiền mặt. Sau đó, P báo lại cho C biết, C bảo P giữ lại 2 triệu tiền công còn lại chuyển vào tài khoản ngân hàng V3 cho C. P đồng ý và nạp 68 triệu đồng vào tài khoản Viettelpay của P rồi chuyển cho C nhưng bị trừ 200.000 đồng phí chuyển nên chỉ chuyển được 67.800.000 đồng. Tổng khối lượng 14 túi ma túy, loại Methamphetamine nêu trên là: 14 túi x 13,918 gam = 194,852 gam.
Tiến hành thu giữ điện tín (rút list điện thoại) xác định, ngày 25/11/2022 và ngày 17/12/2022, C, P và T2 có liên lạc với nhau nhiều lần, phù hợp với thời gian, địa điểm các bị can đã khai nhận về việc liên lạc mua bán ma tuý. Tiến hành trích xuất file video thu được trong xe taxi, biển kiểm soát 98A-X xác định, hồi 13 giờ 09 phút ngày 17/12/2022, có 01 người đàn ông đi xe mô tô đến đỗ sau xe taxi, người này cầm 01 chiếc túi màu nâu có quai xách lên xe taxi ngồi cùng hàng ghế sau với người phụ nữ trong xe. Người đàn ông để 01 hộp giấy lên mặt ghế rồi bóc hở một đầu và cầm trên tay một bọc gồm các túi nilon màu xanh, màu hồng, sau đó lại nhét bọc túi vào trong hộp giấy. Cơ quan điều tra đã cho C quan sát hình ảnh trong file video thu được, C xác nhận mình là người đàn ông đi xe mô tô, cầm túi da và để hộp giấy chứa ma tuý lên mặt ghế và giao dịch mua bán chất ma túy với người phụ nữ tên T2.
Kết quả kiểm tra tài khoản ngân hàng V3 số 100006610X mang tên Nguyễn Văn C xác định hồi 16 giờ 17 phút ngày 27/11/2022, P có chuyển số tiền 67.800.000 đồng cho C .
Quá trình điều tra, Nguyễn Văn C không thừa nhận nguồn gốc số ma tuý thu giữ khi bắt quả tang là của mình đưa cho P cất giữ hộ sau đó bảo P đưa lại để C bán và không thừa nhận việc đưa 14 túi ma túy hồng phiến cho P ngày 25/11/2022, sau đó nhắn số điện thoại của người phụ nữ tên T2 để P liên hệ bán ma tuý ngày 27/11/2022. Căn cứ vào kết quả thu giữ điện tín, kết quả xác minh tài khoản ngân hàng và các chứng cứ khác thu thập được, có đủ cơ sở xác định nguồn gốc số ma tuý thu giữ khi bắt quả tang là của Nguyễn Văn C; có đủ căn cứ xác định ngày 25/11/2022, Nguyễn Văn C đưa cho Vi Hồng P 14 túi ma túy, loại Methamphetamine có tổng khối lượng 194,852 gam để bán.
Đối với người phụ nữ tên T2, C và P đều không biết lai lịch và địa chỉ cụ thể, xác minh số điện thoại 0876434X nhưng không có kết quả nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.
Về vật chứng, tài sản thu giữ: 01 xe mô tô biển kiểm soát 98M1-X, số tiền 2.400.000 đồng, 01 điện thoại di động Iphone màu đen, 01 điện thoại di động Samsung Galaxy màu đen là của Nguyễn Văn C, trong đó C dùng chiếc điện thoại S1 để liên lạc mua bán ma tuý với P và T2. 01 điện thoại di động Iphone 6s plus là của Vi Hồng P dùng để liên lạc mua bán ma tuý với C và T2.
01 xe ô tô biển kiểm soát 98A-X, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe, 01 sổ chứng nhận kiểm định, 01 giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, 01 điện thoại di động Redmi là của anh Nguyễn Văn T1. Ngày 20/12/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T1 số tài sản này. 02 giấy phép liên vận chuyển giữa Việt Nam- Lào là của Công ty cổ phần T3 (nơi C làm lái xe), Cơ quan điều tra trả lại vào ngày 05/01/2023.
Số đồ vật, tài sản còn lại, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng cùng số ma tuý hoàn lại sau giám định để xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2023/HSST ngày 27/7/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã:
Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, 58, 39 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C tù Chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 17/12/2022, phạt bổ sung 10 triệu đồng.
- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, 58, 39 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vi Hồng P tù Chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 17/12/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 03/8/2023, bị cáo Vi Hồng P có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 04/8/2023, bị cáo Nguyễn Văn C có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Văn C xin rút kháng cáo.
Bị cáo Vi Hồng P giữ nguyên kháng cáo. Tại phiên tòa, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Người bào chữa và bị cáo cho rằng bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo không nhận hành vi phạm tội ngày 27/11/2022, tại phiên tòa phúc thẩm thành khẩn khai báo, nên là tình tiết giảm nhẹ mới đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chuyển hình phạt từ tù chung thân xuống tù có thời hạn là 20 năm. Người bào chữa cho bị cáo không đồng ý với ý kiến của Vị đại diện Viện kiểm sát cấp C về tình tiết bị cáo phạm tội nhiều lần. Người bào chữa cho rằng đã tính tổng khối lượng ma túy của bị cáo 2 lần phạm tội là 612,402 gam, nên không tính bị cáo phạm tội nhiều lần nữa.
Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp C tại phiên tòa phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định, hình thức nội dung đơn phù hợp nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã thực hiện đúng và đầy đủ quy định của pháp luật, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng.
Bị cáo C đã rút đơn kháng cáo, việc rút đơn là tự nguyện, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo.
- Về nội dung: xét kháng cáo của bị cáo P, bị cáo P 2 lần thực hiện mua bán ma túy. Vai trò giúp sức cho bị cáo C nhưng hành vi bị cáo nguy hiểm vì lượng ma túy bị cáo mua bán lớn 612,402 gam, được hưởng lợi bất chính, phạm tội nhiều lần. Tuy bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nhưng bị cáo lại phạm tội nhiều lần. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mức hình phạt tù chung thân là phù hợp. Bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điều 355, 357 bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, trình bày của bị cáo, luật sư.
[1] Về tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã tuẩn thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định, hình thức nội dung đơn phù hợp đủ điều kiện xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo C tự nguyện rút đơn kháng cáo, việc rút đơn là tự nguyện, nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo P thành khẩn nhận tội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở xác định bị cáo có 2 lần mua bán trái phép chất ma túy vào các ngày 27/11/2022 và ngày 17/12/2022. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Tại phiên tòa bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào, hành vi của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Tệ nạn ma túy hiện nay là vấn đề nhức nhối của xã hội gây lên nhiều hệ lụy nghiêm trọng, vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng đối với bị cáo mới đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo đề nghị không áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần vì đã tính tổng khối lượng ma túy để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Xét đề nghị này, Hội đồng xét xử nhận định: khi được C giao đi bán ma túy, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nhằm hưởng lợi bất chính. Việc bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội đã thể hiện nhân thân và thái độ chấp hành pháp luật của bị cáo, hành vi đó nguy hiểm hơn người chỉ thực hiện tội phạm một lần. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận đề nghị của Luật sư; chấp nhận đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát- bị cáo vẫn phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội từ 02 lần trở lên.
Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt do bị cáo đã thành khẩn nhận tội. Tuy nhiên, dù có xem xét bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự do đã thành khẩn khai báo. Nhưng hành vi của bị cáo rất nguy hiểm, lượng ma túy mua bán lớn. Bị cáo phạm tội nhiều lần, mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã phù hợp pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của Luật sư; giữ nguyên hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp C tại Hà Nội là phù hợp.
[3]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo C rút kháng cáo nên không phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 348, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
2. Xử:
2.1 Đình chỉ xét xử phúc thẩm với kháng cáo của Nguyễn Văn C. Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2022/HS-ST ngày 27 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử đối với Nguyễn Văn C có hiệu lực pháp luật từ ngày 14/11/2023.
2.2 Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vi Hồng P; Giữ nguyên phần hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2022/HS-ST ngày 27 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang. Cụ thể:
Tuyên bố: Bị cáo Vi Hồng P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm b khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, 58, 39 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vi Hồng P tù Chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 17/12/2022.
3. Về án phí: Bị cáo P phải chịu số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 851/2023/HS-PT
Số hiệu: | 851/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về