TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 84/2021/HSST NGÀY 14/10/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 14 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 74/2021/HSST ngày 26 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 10 năm 2021, đối với các bị cáo:
Họ và tên:
1. Ma Kiên C, sinh năm: 1995 tại tỉnh Đăk Lăk.
Nơi cư trú: Thôn 4, xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam, tôn giáo: Không; con ông Ma Kiên T, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1975; bị cáo có vợ tên Triệu Thị Minh H, sinh năm 1995 và 01 người con sinh năm 2015; Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 24/02/2021, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (bị cáo chưa chấp hành); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/3/2021 cho đến nay. “Có mặt”
2. Nguyễn Tuấn H, sinh năm: 1975 tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
Nơi cư trú: Thôn 7, xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam, tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1945 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1951; bị cáo có vợ tên Hoàng Thị N, sinh năm 1982 và 01 người con sinh năm 2014; Tiền án: Không. Tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/3/2021 cho đến nay. “Có mặt”
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Anh Triệu Văn T, sinh năm 1989 Địa chỉ: Thôn 11, xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước.
- Anh Đinh Văn C, sinh năm 1991 Địa chỉ: Thôn 7, xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước.
- Anh Nông Văn H, sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn 4, xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước.
- Anh Tào Xuân T, sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn 6, xã C, huyện B, tỉnh Bình Phước.
- Anh Hoàng Văn N, sinh năm 1992 Địa chỉ: Thôn 11, xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước.
(Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 14/3/2021, Ma Kiên C mượn xe mô tô không rõ biển số đi từ nhà thuộc thôn 4, xã A đến xã D, huyện B, tỉnh Bình Phước. Tại đây, C gặp và mua ma túy của một người tên Đ (không rõ nhân thân, lý lịch) với số tiền 4.700.000 đồng. Sau khi mua xong C mang ma túy về nhà trong rẫy của gia đình phân ra làm nhiều phần nhỏ để bán lại cho người nghiện kiếm lời và để sử dụng cho bản thân.
Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 16/3/2021, Triệu Văn T đi bộ đến gặp C tại rẫy của gia đình C hỏi mua 100.000 đồng ma túy. C đồng ý rồi giao ma túy cho T, sau đó T đã sử dụng ngay tại rẫy rồi giúp C kéo ống nước tưới cây. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Tuấn H điều khiển xe môtô biển số 70F7 – 4825 đến rẫy của gia đình C gặp C hỏi mua 300.000 đồng ma túy thì C đồng ý và giao ma túy cho H rồi nhận tiền. H đi về thì T xin đi nhờ xe để về cùng. Trong lúc cả hai vừa đi ra thì bị lực lượng công an yêu cầu dừng xe kiểm tra, lúc này H cầm 01 gói giấy chứa ma túy ở tay trái thả rơi xuống đất thì bị khống chế và thu giữ. Đồng thời tổ công tác đã bắt giữ Ma Kiên C đang đứng ở vườn cà phê cạnh nhà và thu giữ tổng số tiền 3.550.000 đồng (trong đó có số tiền 400.000 đồng từ việc bán ma túy cho T và H). Ngoài ra, Ma Kiên C đã chỉ nơi cất giấu 11 gói ma túy tại rẫy của gia đình C. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Tấn H và Ma Kiên C, tạm giữ và niêm phong vật chứng để phục vụ điều tra Quá trình điều tra chứng minh được:
- Ngày 14/3/2021, C bán cho Hoàng Văn N 02 lần, mỗi lần 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng/01 gói tại rẫy của gia đình C; bán cho Tào Xuân T 01 lần 02 gói ma túy với giá 100.000 đồng/01 gói tại đường đất gần trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi thuộc thôn 4, xã A.
- Ngày 15/3/2021, Ma Kiên C bán cho Nguyễn Tuấn H 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Đinh Văn C 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng; bán cho Nông Văn H 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Triệu Văn T 01 lần gói ma túy với giá 100.000 đồng tại rẫy của gia đình C;
- Ngày 16/3/2021, Ma Kiên C bán cho bán cho Nông Văn H 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Triệu Văn T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Nguyễn Tấn H 01 gói mà túy với giá 300.000 đồng.
Tại kết luận giám định số 106/2021/GĐ-MT ngày 19/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:
- Chất màu trắng có trong 01 gói giấy (M) (có chữ ký của Nguyễn Tuấn H) được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,1514 gam.
- Chất màu trắng có trong 11 gói giấy (M1) (có chữ ký của Ma Kiên C) được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 1,3343 gam.
Về vật chứng vụ án:
- Số ma túy còn lại sau giám định đã được niêm phong, 01 điện thoại di động hiệu Nokia của Ma Kiên C đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện B để phục vụ việc truy tố, xét xử.
- 01 xe mô tô biển số 70F7 – 4825 do Nguyễn Tuấn H sử dụng hiện nay chưa chứng minh được chủ sở hữu nên Cơ quan CSĐT – Công an huyện B tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau.
- Số tiền 3.550.000 đồng thu giữ trên người của Ma Kiên C đã được nộp vào kho bạc nhà nước theo quy định.
Tại Bản cáo trạng số 74/CT –VKS ngày 23/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Ma Kiên C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b,c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh và hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Ma Kiên C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; về hình phạt đề nghị áp dụng theo điểm b,c khoản 2, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ma Kiên C từ 8 năm đến 09 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Buộc bị cáo Ma Kiên C phải nộp số tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt đề nghị áp dụng theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn H từ 12 tháng đến 18 tháng tù.
Về vật chứng vụ án:
Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 02 phong bì niêm phong số 106M và 106M1 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Phước.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động của bị cáo Ma Kiên C dùng để liên lạc bán ma túy.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 3.550.000 đồng thu giữ của bị cáo Ma Kiên C.
Đối với 01 xe mô tô biển số 70F7 – 4825, hiện nay vẫn chưa xác minh được chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị tách ra tiếp tục xác minh, giải quyết sau.
Đối với Đinh Văn C, Nông Văn H, Hoàng Văn N, Triệu Văn T, Tào Xuân T là người mua ma túy của C về với mục đích sử dụng, Cơ quan CSĐT – Công an huyện B, đã lập hồ sơ giao cho Công an xã A xử lý theo quy định.
Đối với người tên Điện, là người bán ma túy cho Ma Kiên C hiện không xác minh được nhân thân lý lịch, Cơ quan CSĐT – Công an huyện B, tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau.
Về án phí buộc bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Bị cáo Ma Kiên C và Nguyễn Tuấn H thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng, bị cáo C và bị cáo H hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 16/3/2021, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B kiểm tra, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Tuấn H nên đã lập biên bản và thu giữ tang vật là 0,1514gam ma túy loại Heroine. H khai nhận số ma túy này H mua của Ma Kiên C với giá 300.000 đồng tại rẫy của C thuộc thôn 4, xã A, huyện B, tỉnh Bình Phước. Cơ quan điều tra Công an huyện B đã tiến hành khám xét tại rẫy của Ma Kiên C phát hiện 11 gói ma túy loại Heroine có trọng lượng 1,3343 gam nên đã bắt quả tang người cùng tang vật. Quá trình điều tra, C khai nhận số ma túy thu giữ là của C cất dấu trái phép để bán kiếm lời, trong khoảng thời gian từ ngày 14/3/2021 đến ngày 16/3/2021, C đã 10 lần bán ma túy cho những người nghiện ma túy. Cụ thể như sau:
- Ngày 14/3/2021, C bán cho Hoàng Văn N 02 lần, mỗi lần 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng/01 gói tại rẫy của gia đình C; bán cho Tào Xuân T 01 lần 02 gói ma túy với giá 100.000 đồng/01 gói tại đường đất gần trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi thuộc thôn 4, xã A.
- Ngày 15/3/2021, C bán cho Nguyễn Tuấn H 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Đinh Văn C 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng; bán cho Nông Văn H 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Triệu Văn T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng tại rẫy của gia đình C;
- Ngày 16/3/2021, C bán cho bán cho Nông Văn H 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Triệu Văn T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Nguyễn Tấn H 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng.
Hành vi bán ma túy (loại Heroine) của Ma Kiên C cho các đối tượng Nông Văn H, Nguyễn Tuấn H, Triệu Văn T, Nông Văn Chính, Hoàng Văn N, Tào Xuân T nhiều lần từ ngày 14/3/2021 đến ngày 16/3/2021 thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, vào ngày 16/3/2021 bị cáo đã có hành vi vừa bán mà túy cho Triệu Văn T, vừa bán ma túy cho Nguyễn Tuấn H, hành vi này của bị cáo thuộc trường hợp phạm tôi đối với 02 người trở lên theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Ma Kiên C đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b,c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý phạm tội. Điều đó thể hiện các bị cáo là người xem thường pháp luật.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Đối với bị cáo Ma Kiên C: Mặc dù bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện B ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; ngoài ra, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên việc am hiểu pháp luật còn hạn chế, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 mà bị cáo được hưởng.
Đối với bị cáo Nguyễn Tuấn H: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo đang điều trị ARV (HIV/AIDS) đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 mà bị cáo được hưởng.
[6] Sau khi cân nhắc tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà các bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo Ma Kiên C bị nghiện ma túy, không có tài sản, sống cùng với bố mẹ, có con nhỏ; bị cáo Nguyễn Tuấn H bị nghiện mà túy, nghề nghiệp làm thuê, hiện đang điều trị bệnh nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo C và bị cáo H.
[8] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 02 phong bì niêm phong số 106M và 106M1 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động của bị cáo Ma Kiên C dùng liên lạc để bán ma túy.
Đối với số tiền 3.550.000 đồng thu giữ của bị cáo Ma Kiên C, tại phiên tòa bị cáo xác định chỉ có 1.300.000 đồng trong số tiền bị cáo bị thu giữ là tiền bị cáo thu lợi bất chính từ hành vi bán ma túy. Số tiền còn lại có được là do bị cáo thu nhập từ việc làm rẫy của gia đình. Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo đối với số tiền thu lợi từ hành vi bán mua túy là 1.300.000 đồng phù hợp với số tiền bị cáo thu được khi bán ma túy cho Đinh Văn C, Nông Văn H, Hoàng Văn N, Triệu Văn T, Tào Xuân T, Nguyễn Tuấn H từ ngày 14/3/2021 cho đến ngày 16/3/2021. Do đó, có căn cứ xác định số tiền 1.300.000 đồng thu giữ của bị cáo là khoản tiền bị cáo thu lợi bất chính từ hành vi bán ma túy nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước. Đối với số tiền 2.250.000 đồng còn lại, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 xe mô tô biển số 70F7 – 4825, hiện này vẫn chưa xác minh được chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị tách ra tiếp tục xác minh, giải quyết sau.
[9] Về án phí: Buộc các bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[10] Đối với Đinh Văn C, Nông Văn H, Hoàng Văn N, Triệu Văn T, Tào Xuân T là người mua ma túy của C về với mục đích sử dụng, Cơ quan CSĐT – Công an huyện B, đã lập hồ sơ giao cho Công an xã A xử lý theo quy định.
[11] Đối với người tên Điện, là người bán ma túy cho Ma Kiên C hiện không xác minh được nhân thân lý lịch, Cơ quan CSĐT – Công an huyện B, tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau.
[12] Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Tuyên bố bị cáo Ma Kiên C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
p dụng điểm b, c khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Ma Kiên C 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/3/2021.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
p dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/3/2021.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 02 phong bì niêm phong số 106M và 106M1 của phòng kỹ thuật hình sự.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động của bị cáo Ma Kiên C dùng liên lạc để bán ma túy.
Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 1.300.000 đồng bị cáo Ma Kiên C thu lợi bất chính từ việc bán ma túy.
Trả lại cho bị cáo Ma Kiên C số tiền 2.250.000 đồng thu giữ của bị cáo.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009881, quyển số 0198 ngày 05/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B và Giấy nộp tiền ngày 20/9/2021 tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam).
Đối với 01 xe mô tô biển số 70F7 – 4825, hiện này vẫn chưa xác minh được chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị tách ra tiếp tục xác minh, giải quyết sau.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Ma Kiên C và bị cáo Nguyễn Tuấn H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 84/2021/HSST
Số hiệu: | 84/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về