Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 83/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 83/2023/HS-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2023, tại Toà án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 63/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Đặng Văn K - Sinh ngày 24 tháng 6 năm 2004, tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ E, phường X, quận T, TP .; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Đặng Văn Q (1970) và bà: Nguyễn Thị Cẩm T (1972); Gia đình có 02 người con, bị can là con thứ nhất.

Tiền án: Chưa Tiền sự: Ngày 25/7/2022, bị Công an phường H ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Phạt tiền: 1.000.000 đồng.

Nhân thân:

+ Ngày 25/6/2020, bị Công an quận T, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe người khác”. Hình thức xử phạt: Cảnh cáo.

+ Ngày 01/12/2021, bị Công an phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”.Hình thức phạt tiền: 750.000 đồng (Đã chấp hành).

+ Ngày 17/07/2023, bị Công an quận L, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”. Hình thức phạt tiền 2.000.000 đồng.

Bị bắt quả tang ngày 27 tháng 4 năm 2023, bị tạm giữ ngày 27 tháng 4 năm 2023, tạm giam ngày 06 tháng 5 năm 2023, (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Đoàn Thị Kim A – sinh năm 1976; địa chỉ: 3 đường H, quận H, TP . (Vắng mặt).

+ Ông Hoàng Đăng Q1 – sinh năm 2002; địa chỉ: A đường T, quận H, TP .

(Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc12 giờ 30 phút, ngày 27 tháng 4 năm2023, tại ngã ba đường Đ - H, P. H, Q. L, TP ., đội CSĐTTP về Ma túy Công an quận L, thành phố Đà Nẵng tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện, bắt quả tang Đặng Văn K đang tàng trữ ma tuý.

Tang vật thu giữ:

- 01 gói giấy màu trắng bên trong có 02 gói ny lông bên trong mỗi gói ny lông chứa chất tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy. Đã được niêm phong theo quy định. Ký hiệu A1.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exiter BKS 43C1-244.1x.

- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone gắn thẻ sim 0702.737.7xx.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đặng Văn K địa chỉ: K L, tổ E, phường X, quận T, thành phố Đà Nẵng, Cơ quan điều tra tiếp tục phát hiện và thu giữ:

- 01 gói ny lông kích thước khoảng (07x4,2) cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 gói ny lông kích thước khoảng (03x03) cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy. Được niêm phong theo quy định. Ký hiệu A2.

* Theo Kết luận giám định số 356/GĐ-MT ngày 05/5/2023 của Phòng K1 - Công an T2, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu A1, A2 là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu A1: 0,766 gam và A2 là 1,587 gam.

Quá trình điều tra, từ lời khai nhận của Đặng Văn K và các chứng cứ thu giữ trong vụ án xác định:

Sáng ngày 27/4/2023, một thanh niên tên “H” (không rõ lai lịch) liên hệ với K qua số điện thoại của K “0702.737.7xx” để hỏi mua 2.000.000 đồng ma tuý. K đồng ý và hẹn giao dịch ở đường Đ, P. H. Sau đó, K lấy giấy vệ sinh cuộn bên ngoài 02 gói ma tuý loại Ketamine rồi để ở giữa lòng bàn chân phải và dép phải rồi điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exiter màu đỏ đen BKS 43C1-244.1x đến điểm hẹn giao ma tuý. Đến ngã ba Đ - H, K gọi điện cho H đến nhận ma tuý rồi xoá số điện thoại của H. Khi K đang đứng chờ H thì bị phát hiện bắt quả tang như trên. Đây là lần đầu tiên Khoa bán ma tuý nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện.

Nguồn gốc số ma túy mà cơ quan Công an thu giữ trên người và tại nhà của K là K mua của một thanh niên tên “Chuột” (không rõ lai lịch) tại khu vực chợ H1, TP . với giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) cách ngày bị bắt khoảng 1 tuần. Đây là lần đầu K mua ma túy của C. K liên lạc với C qua số điện thoại 0777.414.1xx. Sau khi mua ma túy của C, K đem về nhà đã sử dụng một ít, còn lại K bán để kiếm lời.

Tại Cáo trạng số 88/CT-VKS ngày 08 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Đặng Văn K về tội "Mua bán phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Đặng Văn K từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 Điện thoại di động hiệu Iphone gắn thẻ sim 0702.737.7xx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Đặng Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và tang vật thu giữ được. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định:

Vào ngày 27/4/2023, tại ngã ba đường Đ - H, P. H, Q. L, TP ., đội CSĐTTP về Ma túy Công an quận L, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Đặng Văn K đang tàng trữ 0,766 gam ma túy loại Ketamine; thu giữ tại chỗ ở của K tại K L, tổ E, phường X, quận T, thành phố Đà Nẵng 1,587 gam ma túy loại Ketamine. Như vậy, Đặng Văn K tàng trữ 2,353 gam ma túy loại Ketamine mục đích để mua bán nhưng chưa kịp bán thì đã bị bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo K thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 251 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo K là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma tuý gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự phát triển nòi giống của dân tộc, ma tuý là tệ nạn xã hội và là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, nhưng bản thân là người sử dụng ma túy, đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng vẫn tiếp tục sử dụng ma túy, bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật, vẫn cố ý bán ma túy cho các con nghiện nên đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm.

[4] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã ăn năn hối cải và thành khẩn khai báo. Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5] Xét thấy cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự phải bổ sung đối với bị cáo K số tiền 5.000.000 đồng.

[6] Xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đề nghị là phù hợp với nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, mang biển số 43C1-244.1x do bà Đoàn Thị Kim A đứng tên chủ sỡ hữu. Trước đây, do có quan hệ tình cảm nên bà Kim A cho ông Hoàng Đăng T1 mượn xe để sử dụng. Sau khi ông T1 mất để lại xe cho con trai là Hoàng Đăng Q1 tiếp tục sử dụng. Ngày 27/4/2023, Q1 cho K mượn xe trên nhưng không biết K mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 14/7/2023, Cơ quan CSĐT Công an quận L ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô trên cho bà Đoàn Thị Kim A là có cơ sở.

- Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone gắn thẻ sim 0702.737.7xx là phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

[8] Đối với đối tượng tên “Chuột” là người đã bán ma túy cho K và đối tượng tên “H” là người đã gọi điện cho K để mua ma túy vào ngày 27/4/2023, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này nên sẽ tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

[9] Đối với Hoàng Đăng Q1 cho K mượn xe để đi lại, không liên quan, không biết việc K sử dụng xe đi bán ma túy nên Cơ quan CSĐT không đề cập xử lý là có cơ sở.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Văn K phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn K 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 27 tháng 4 năm 2023.

Phạt bổ sung bị cáo Đặng Văn K số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 Điện thoại di động hiệu Iphone gắn thẻ sim 0702.737.7xx.

(Hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 8 năm 2023) 3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo K phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 83/2023/HS-ST

Số hiệu:83/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về