Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 81/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CG, TỈNH LA

BẢN ÁN 81/2023/HS-ST NGÀY 10/08/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 8 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CG, xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số 73/2023/TLST - HS ngày 21 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2023/QĐXXST-HS, ngày 26 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên Thượng Minh T, sinh năm: 2000.

Tên gọi khác: Tý.

Nơi thường trú: ấp Lăng, xã T, huyện C, tỉnh LA; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thượng Minh T và bà Nguyễn Thị Kim Q; Bản thân chưa có vợ, con; Tiền án – tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 26/02/2021 bị Công an thị trấn C, huyện C, xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Ngày 04/10/2021 bị Công an thị trấn C, huyện C, xử phạt hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/10/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Họ và tên Huỳnh Anh D, sinh năm: 1995.

Tên gọi khác: D Hí.

Nơi thường trú: Ấp 5, xã Phước Đông, huyện C, tỉnh LA; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn K và bà Phạm Thị H; Bản thân có vợ tên Nguyễn Thị Trúc H, có 01 con sinh năm 2021; Tiền án – tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 01/3/2012 bị Công an huyện C, tỉnh LA xử phạt vi phạm hành chính, số tiền 250.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự C cộng”; Ngày 19/7/2012 bị Công an xã Phước Đông, huyện C, lập hồ sơ giáo dục tại xã, thời hạn 03 tháng theo Nghị định 163/2013/NĐ-CP; Ngày 11/12/2012 bị Ủy ban nhân dân huyện C đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng về hành vi “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”; Ngày 23/4/2013 bị khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích”, ngày 30/5/2013 được Đình chỉ điều tra do bị hại rút đơn yêu cầu xử lý hình sự; Ngày 12/02/2018 bị Tòa án nhân dân huyện C áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng; Ngày 01/6/2023 bị Tòa án nhân dân huyện C áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/6/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Họ và tên Nguyễn Thanh H, sinh năm: 1983.

Tên gọi khác: Lắm.

Nơi thường trú: ấp Bà Chủ, xã Tân Lân, huyện C, tỉnh LA; Nghề nghiệp: thả lưới cá; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ (đã chết); Bản thân có vợ tên Lô Thị T (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2009; Tiền án – tiền sự: không; Nhân thân: Tháng 9/2014 bị Công an huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh bắt đưa đi cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy Phú Đức, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, đến tháng 9/2016 chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 21/6/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Nguyễn Thị V, sinh năm: 1987 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Bà Chủ, xã Tân Lân, huyện C, tỉnh LA.

2. Nguyễn Thị Kim T, sinh năm: 1988 (vắng mặt).

Cư trú: khu phố Trị Yên, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh LA.

3. Huỳnh Phước D, sinh năm: 1993 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Tân Thanh A, xã Phước Lại, huyện CG, tỉnh LA.

Người chứng kiến:

1. Nguyễn Tấn C, sinh năm: 1984 (vắng mặt).

Cư trú: Khu phố 3, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh LA.

2. Lê Thanh T1, sinh năm: 2000 (vắng mặt).

Cư trú: khu phố Phước Thuận, thị trấn CG, huyện CG, tỉnh LA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 30/10/2022 Công an thị trấn CG tuần tra phòng, chống tội phạm trên tuyến đường Quốc lộ 50 thuộc khu phố Thanh Ba, thị trấn CG, huyện CG thì phát hiện 03 đối tượng đi trên 02 xe mô tô có biểu hiện nghi vấn nên T hành kiểm tra hành chính. Khi kiểm tra, Cơ quan Công an phát hiện Huỳnh Anh D dùng tay ném 02 gói nylon xuống đường, gồm: 01 gói nylon có rãnh khép viền trắng bên trong chứa 01 viên nén màu hồng và 01 gói nylon có rãnh khép, viền trắng bên trong chứa chất bột màu trắng và phát hiện trong T1i quần của Thượng Minh T đang mặc có 01 gói nylon màu trắng được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy nên T hành lập biên bản vụ việc và tạm giữ tang vật, niêm phong các chất nghi là ma túy và gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 1004/KL-KTHS ngày 04/11/2022 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh LA, kết luận:

1. T1i niêm phong mã số NS4A 157760: Tinh thể rắn màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3292 gam, loại Methamphetamine.

2. T1i niêm phong mã số NS4A 157761: 01 (một) viên nén màu hồng đựng trong 01 T1i nylon có rãnh khép, được niêm phong gửi giám định là không đủ cơ sở để kết luận có pH là chất ma túy hay không, có khối lượng 0,4423gam.

3. T1i niêm phong mã số NS4A 157762: Chất bột màu trắng đựng trong 01 (một) T1i nylon có rãnh khép, được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2562 gam, loại Ketamine.

Tại Kết luận giám định số 482/KL-KTHS ngày 18/01/2023 của Phân viện kỹ thuật hình sự tại Tp. Hồ Chí Minh – Bộ Công an, kết luận: Chất bột màu hồng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: MDMA, Ketamine; Về khối lượng đã được Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh LA trả lời trong kết luận giám định số 1004/KL-KTHS(MT) ngày 04/11/2022. Mẫu vật đã sử dụng hết cho C tác giám định.

Qua điều tra, D, H và T khai nhận: Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 30/10/2022, H điều khiển xe mô tô biển số 59D1-xxxx chở T đến nhà của đối tượng H (tại xã Tân Ân, huyện C) để lấy ma túy đi trao đổi về cùng nhau sử dụng (do trước đó H có nghe T và H nói chuyện về việc đi trao đổi ma túy). Khi đến nơi thì H đưa cho H 01 gói nylon chứa viên nén màu hồng và 01 gói nylon có rãnh khép, viền trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. H cầm lên xem rồi đưa cho T cất giữ. Sau đó, H chở T đến khu vực khu phố Thanh Ba, thị trấn CG gặp D để trao đổi ma túy. Khi gặp nhau, T đưa cho D 02 gói nylon chứa ma túy rồi D đưa lại cho T 01 gói nylon chứa ma túy đá. Khi trao đổi ma túy xong thì bị Công an kiểm tra, phát hiện số ma túy trên.

Tại bản cáo trạng số 78/CT-VKSCG ngày 20/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG truy tố ba bị cáo cùng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền C tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt Thượng Minh T: từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Thanh H: từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Huỳnh Anh D: từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với ba bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Vật chứng: đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1747 gam được đóng gói niêm phong số NS4A 157760 và 0,1160 gam được đóng gói niêm phong số NS4A 157762; 01 (một) thẻ sim điện thoại di động số 0764.667.xxx của bị cáo T; 01 (một) thẻ sim điện thoại di động số 0783.xxx.120 của bị cáo D.

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động Samsung của bị cáo T và 01 (một) điện thoại di động Iphone 6 của bị cáo D.

Ngoài ra Cơ quan CSĐT Công an huyện CG còn tạm giữ và hoàn trả: 01 (một) xe mô tô Sirius màu đỏ, biển số 62R1-xxxx cho anh Huỳnh Phước D, là chủ sở hữu và 01 (một) xe mô tô Altila, biển số 59D1-xxxxx cho chị Nguyễn Thị Kim T, là chủ sở hữu. Là phù hợp, nên không đề cập.

Ba bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Ba bị cáo nói lời sau cùng là xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Thượng Minh T, Huỳnh Anh D và Nguyễn Thanh H đều những là đối tượng sử dụng ma túy và quen biết nhau. Do có thỏa thuận trước về việc trao đổi ma túy về sử dụng, nên vào khoảng 09 giờ ngày 30/10/2022, trên tuyến đường tránh thuộc Quốc lộ 50, khu phố Thanh Ba, thị trấn CG, huyện CG, H và T trao đổi 02 gói ma túy (01 gói loại Ketamine và 01 gói loại MDMA, Ketamine) để nhận 01 gói ma túy (loại Methamphetamine) từ D. Sau khi giao nhận ma túy xong thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, lúc này D ném 02 gói ma túy xuống đường bị phát hiện và phát hiện trong T1i quần của T đang mặc trên người có 01 gói ma túy. Hành vi của ba bị cáo là dùng chất ma túy để trao đổi, thanh toán trái phép đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Việc ba bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, nhưng không có sự bàn bạc, phân C, cấu kết chặt chẽ, nên không xem xét đến tình tiết định khung hình phạt là phạm tội có tổ chức.

[3] Hành vi trái pháp luật của ba bị cáo là nguy hiểm, ba bị cáo thừa biết ma tuý là chất độc hại, gây nghiện làm tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần và thể chất con người nên Nhà nước thống nhất quản lý và nghiêm cấm các hành vi như sản xuất, mua bán, tàng trữ, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, nhưng ba bị cáo vẫn bất chấp thực hiện hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi của ba bị cáo được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, ngoài ra việc sử dụng ma túy là một trong các tác nhân gây ra các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần thiết xử lý ba bị cáo bằng một hình phạt thoả đáng mới có thể giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Trong vụ án cũng cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tích chất, mức độ và nhân thân của từng bị cáo khi lượng hình:

[4.1] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với ba bị cáo theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự: không.

[4.2] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với ba bị cáo: ba bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4.3] Xét về vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của ba bị cáo: T là người chủ động liên lạc với D để thỏa thuận trao đổi ma túy, H là người điều khiển xe mô tô chở T đi nhận ma túy từ đối tượng H để trao đổi và D trước đó đã chủ động mua 200.000 đồng ma túy đá để trao đổi với H và T.

[4.3] Xét về nhân thân, cả ba bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể:

Đối với bị cáo T: theo Quyết định số 29/QĐ-XPHC, ngày 26/02/2021 bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã nộp phạt và theo Quyết định số 90/QĐ-XPHC, ngày 04/10/2021 bị Công an thị trấn C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, đã nộp phạt;

Đối với bị cáo D: Ngày 01/3/2012 bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính, số tiền 250.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự C cộng”; Ngày 19/7/2012 bị Công an xã Phước Đông, huyện C, lập hồ sơ giáo dục tại xã, thời hạn 03 tháng theo Nghị định 163/2013/NĐ-CP; Theo Quyết định số 1796/QĐ- UBND, ngày 11/12/2012 của Ủy ban nhân dân huyện C áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “Hủy hoại tài sản và gây rối trật tự C cộng” thời hạn 24 tháng; Theo Quyết định số 32/CSĐT, ngày 23/4/2013 của Cơ quan CSĐT Công an huyện C khởi tố bị can về tội “Cố ý gây thương tích”, ngày 30/5/2013 được đình chỉ điều tra do bị hại rút đơn yêu cầu xử lý hình sự; Theo Quyết định số 07/QĐ-TA, ngày 12/02/2018 của Tòa án nhân dân huyện C áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng và theo Quyết định số 48/QĐ-TA, ngày 01/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện C áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng.

Đối với bị cáo H: Tháng 9/2014 bị Công an huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh bắt đưa đi cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy Phú Đức, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, đến tháng 9/2016 chấp hành xong.

[5] Với những phân tích trên xét thấy hình phạt dành cho T và D là bằng nhau và cao hơn H và cũng cần cách ly ba bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể giáo dục, cải tạo ba bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Xét thấy áp dụng hình phạt tù đối với ba bị cáo cũng đủ giáo dục, răn đe, nên không cần thiết pH áp dụng hình phạt bổ sung đối với ba bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[6] Đối với đối tượng Tý 3 Đâu, theo bị cáo D khai là người bán ma túy cho D vào ngày 30/10/2022. Qua điều tra, chưa xác minh được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau. Đối với đối tượng H là người cung cấp ma túy cho H và T. Qua điều tra, chưa làm việc được nên Cơ quan CSĐT Công an huyện CG, tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau.

[7] Về tang vật thu giữ: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự, để xử lý tang vật thu giữ như sau:

[7.1] Đối với số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1747 gam được đóng gói niêm phong số NS4A 157760 và 0,1160 gam được đóng gói niêm phong số NS4A 157762, nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 (một) thẻ sim điện thoại di động số 0764.667.xxx của bị cáo T và 01 (một) thẻ sim điện thoại di động số 0783.xxx.120 của bị cáo D, cả hai thẻ sim này hai bị cáo sử dụng liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy.

[7.2] Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung của bị cáo T và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 của bị cáo D, cả hai điện thoại di động này hai bị cáo sử dụng liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội, nên tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

[7.3] Đối với 01 (một) xe mô tô Sirius màu đỏ, biển số 62R1-xxxx do anh Huỳnh Phước D là chủ sở hữu cho bị cáo D mượn sử dụng và 01 (một) xe mô tô Altila, biển số 59D1-xxxxx do chị Nguyễn Thị Kim T là chủ sở hữu cho chị Nguyễn Thị V (em bị cáo H) mượn và ngày 30/10/2022 chị V tiếp tục cho bị cáo H mượn sử dụng. Anh D và chị T không biết các bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện CG đã hoàn trả cho chủ sở hữu, là phù hợp.

[8] Về án phí: mỗi bị cáo pH chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Thượng Minh T, Huỳnh Anh D và Nguyễn Thanh H cùng phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Thượng Minh T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 30/10/2022.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Huỳnh Anh D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 22/6/2023.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thanh H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 21/6/2023.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam ba bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (10/8/2023) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tang vật:

Tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng: 0,1747 gam được đóng gói niêm phong số NS4A 157760 và 0,1160 gam được đóng gói niêm phong số NS4A 157762; 01 (một) thẻ sim điện thoại di động số 0764.667.xxx; 01 (một) thẻ sim điện thoại di động số 0783.xxx.120.

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6.

Hiện vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện CG đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 48/QĐ-VKSCG, ngày 20 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG.

Về án phí: mỗi bị cáo pH nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm C khai báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 81/2023/HS-ST

Số hiệu:81/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về