Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 78/2022/HS-ST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 78/2022/HS-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm trực T công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. La Văn X, sinh năm 1985 tại N; ĐKTT: Xã B, huyện C, tỉnh N; nơi cư trú: Thôn 1, xã B, huyện T, thành phố H; Nghề ngH: Công nhân; Trình độ văn hóa:

04/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông La Chí C (đã chết) và con bà Lương Thị T, sinh năm 1960; Có vợ là chị Lương Thị Bảo, sinh năm 1986 và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 247/2016/HSST ngày 12/7/2016 của Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh N xử phạt 04 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã xóa án tích); Bị cáo bị tạm giữ từ ngày từ ngày 14/12/2021 đến ngày 23/12/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

2. Kha Văn V, sinh năm 1989 tại N; ĐKTT: Xã B, huyện C, tỉnh N; nơi cư trú: Thôn 1, xã B, huyện T, thành phố H; Nghề ngH: Công nhân; Trình độ văn hóa:

9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Kha Văn X, sinh năm 1961 và con bà Kha Thị H, sinh năm 1961; Có vợ là chị Vi Thị Yến, sinh năm 1955 và có 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày từ ngày 14/12/2021 đến ngày 23/12/2021 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Kha Văn V: Ông Bùi Văn Bình, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; có mặt.

- Điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ, lưu giam Công an huyện T gồm:

Bà Nguyễn Thị Liễu – Thư ký Tòa án.

Ông Phạm Thế Duyệt – Kiểm tra viên - Viện kiểm sát nhân dân huyện T thành phố H.

Ông Nguyễn Quang Duy, Vũ Biên C, Hoàng Đắc Tài, Phạm Sơn Nguyên, Lê Đức Anh – Cán bộ Nhà tạm giữ, lưu giam Công an huyện T thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ ngày 13/12/2021, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện T kết hợp với Công an xã B phát hiện, bắt quả tang La Văn X đang bán trái phép chất ma túy cho đối tượng Vì Văn C, sinh năm 1993, ở bản Y, xã S, huyện Đ, tỉnh Đ tại phòng trọ của X ở thôn 1, xã B, huyện T, thành phố H. Thu giữ: tại mặt giường ngủ trong phòng của X 08 gói giấy chứa chất bột màu trắng (nghi chất ma túy); 01 bật lửa ga; 11 mảnh giấy bạc (KT 1.5x5cm), trong đó có hai mảnh giấy bạc bị nám đen; 09 mảnh giấy vở học sinh (KT 03x03cm); 01 chiếc dao lam, 01 tẩu cuốn bằng giấy.

Tại thời điểm bắt giữ, trong phòng trọ của X còn có các đối tượng: Kha Văn V (là người sống chung phòng với X); Vi Văn K, sinh năm 1982; Hoàng Văn T, sinh năm 1996; Lữ Văn M, sinh năm 1988, đều ở xã B, huyện C, tỉnh N. Tổ công tác đã đưa các đối tượng X, V, K, T, M, C cùng vật chứng về trụ sở Công an xã B lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở và khu vực có liên quan của X, V: không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại Cơ quan điều tra, La Văn X khai: X và Kha Văn V là bạn bè quen biết cùng quê và đều nghiện ma túy Heroine. V thuê phòng trọ số 04 của anh Nguyễn Đăng Tú, sinh năm 1986 ở thôn 01, xã B, huyện T, thành phố H để ở từ tháng 6 năm 2021. Đến tháng 9 năm 2021, X về ở cùng V tại phòng trọ số 04, thống nhất chia đôi tiền thuê phòng, điện nước. Do tình hình dịch bệnh nên công việc không ổn định, X nảy sinh ý định mua ma túy về chia nhỏ để sử dụng cho bản thân và bán cho các đối tượng nghiện khác có nhu cầu để kiếm lợi. Khoảng 17 giờ ngày 12/12/2021, X sang khu vực đường tàu nội thành H mua của 01 phụ nữ không quen biết 1.000.000 đồng ma túy Heroine. Mua được ma túy, X mang về phòng trọ chia nhỏ được 18 gói để sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện với giá 100.000 đồng/gói. X đã sử dụng hết 03 gói. Sáng ngày 13/12/2021, X bán cho V 01 gói ma túy nhưng V chưa trả tiền và hẹn có lương sẽ trả. V sử dụng hết gói ma túy ngay tại phòng trọ. Sau đó, khi X, V đang ở phòng trọ thì lần lượt có Hoàng Văn T, Vi Văn K, Lữ Văn M, Vì Văn C đến hỏi mua ma túy của X và đều hẹn khi có lương sẽ trả tiền. X đồng ý và đã bán cho T 03 lần, mỗi lần 01 gói ma túy; bán cho K, M, C mỗi người 01 gói ma túy. T, K, M, C sau khi mua được ma túy đã lấy giấy bạc và bật lửa có sẵn sử dụng luôn tại phòng trọ của X, V. X, V đều chứng kiến và không ngăn cản, đồng ý để cho các đối tượng trên sử dụng ma túy tại phòng trọ của mình. Khi C vừa sử dụng ma túy Xng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang như nội dung nêu trên.

Ngoài ra, X còn khai: trước đó đã bán ma túy cho V, T, K, M, C nhiều lần khác nhưng không nhớ cụ thể các lần, chỉ nhớ đã bán cho M 01 gói ma túy vào ngày 05/12/2022, bán cho C 01 gói ma túy vào ngày 11/12/2022. Việc X bán ma túy, V không tham gia và không được hưởng lợi gì. Tất cả các lần X bán ma túy cho T, K, M, C trước đó, chỉ có X với các đối tượng trên trực tiếp giao dịch mua bán tại khu vực gần phòng trọ của X, V đi làm không ở phòng trọ nên không biết.

Tại Cơ quan điều tra, Kha Văn V khai phù hợp với lời khai của X như nội dung nêu trên. V và X cùng thuê chung phòng trọ số 04 ở xã B. Việc X bán ma túy, V không tham gia và không được hưởng lợi gì. Ngày 13/12/2021, khi T, K, M, C đến mua ma túy của X và sử dụng ma túy luôn tại phòng trọ, V biết nhưng không ngăn cản do các đối tượng trên đều là bạn nghiện, ở cùng quê với V.

Các đối tượng nghiện Hoàng Văn T, Vi Văn K, Lữ Văn M, Vì Văn C khai phù hợp với lời khai của X, V như nội dung trên.

Tại bản Kết luận giám định số 646/KLGĐ-MT ngày 20/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận: Chất bột màu trắng trong 08 gói giấy thu giữ của X là ma túy, có khối lượng 0,30 gam, là loại Heroin.

Cáo trạng số 85/CT-VKSTN ngày 17 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố H đã truy tố các bị cáo La Văn X về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự và Kha Văn V về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo trình bày đã thực hiện hành vi như nội dung nêu trên và đồng ý với tội danh mà Kiểm sát viên luận tội, kết tội đối với các bị cáo và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Kiểm sát viên đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm d khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo La Văn X với mức án từ 9 đến 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 8 đến 9 năm tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Kha Văn V với mức án từ 8 đến 9 năm tù đều về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 646MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; 01 bật lửa gas màu đỏ và 01 dao lam đều đã qua sử dụng; 11 mảnh giấy bạc kích thước 1,5 x 5cm trong đó có 02 mảnh bị nám đen, 09 mảnh giấy vở học sinh kích thước 3 x 3 cm;

01 tẩu cuốn bằng giấy. Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo Kha Văn V trình bày quan điểm bào chữa đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bÞ c¸o. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, sau khi bị bắt tại cơ quan điều tra bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình, ngoài ra bị cáo còn là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt. Từ những phân tích trên trợ giúp viên pháp lý đề nghị, Hội đồng xét xử, căn cứ: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 51, của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo xử bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo được cải tạo giáo dục, sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình để bị cáo có cơ hội sửa chữa, khuyết điểm sai lầm và đề nghị xem xét miễn án phí cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Viện kiểm sát nhân dân huyện T và người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan này trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội phạm mà Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận:

Bị cáo La Văn X đã có hành vi mua ma túy là loại Hêroin về chia nhỏ bán cho các đối tượng kiếm lời cụ thể là: Ngày 05/12/2022 bán cho Lữ Văn M 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; ngày 11/12/2022 bán cho Vì Văn C 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng và tiếp đó ngày 13/12/2022 tại phòng trọ của mình thuê ở thôn 01, xã B, huyện T, thành phố H La Văn X đã bán cho Kha Văn V, Hoàng Văn T, Vy Văn K, Lữ Văn M, Vì Văn C mỗi người 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng/1gói đều hẹn có lương sẽ trả tiền. Đồng thời trong ngày 13/12/2022 La Văn X đã cho các đối tượng trên sử dụng ma túy tại phòng trọ của mình, bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ là 0,30 gam Heroine. Với hành vi nêu trên đủ căn cứ kết luận các bị cáo La Văn X đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự.

Đi với bị cáo Kha Văn V là người cùng thuê, ở chung phòng trọ với La Văn X, không tham gia vào việc bán trái phép chất ma túy của X, nhưng ngày 13/12/2021 đã đồng ý để cho các đối tượng T, K, M, C sử dụng ma túy tại phòng trọ của mình. Với hành vi nêu trên đủ căn cứ kết luận Kha Văn V đã phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, theo điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng số 85/CT-VKSTN ngày 17 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo như đã nêu trên và lời luận tội, kết tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý gây mất trật tự trị an xã hội nên cần thiết phải có hành phạt nghiêm đúng với tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo.

[4] Xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhân thân các bị cáo, tính chất vụ án và quyết định hình phạt:

- Về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

Đi với tội phạm Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, đây là vụ án đồng phạm, phân hóa vai trò những người đồng phạm xét thấy bị cáo La Văn X là người thực hành nên vị trí, vai trò trong vụ án là cao hơn bị cáo Kha Văn V là người giúp sức.

Đi với bị cáo La Văn X còn có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người nên cần áp dụng hình phạt nghiêm tương xứng với tính chấp hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo buộc cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy thể hiện các bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy, thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo, như vậy mức hình phạt chính mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là tương đối phù hợp và chấp nhận quan điểm của người bào chữa cho bị cáo.

[5] Tại khoản 5 Điều 251, khoản 3 Điều 256 của Bộ luật Hình sự quy định hình phạt bổ sung, do các bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng Tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T các vật chứng cần xử lý gồm:

01 phong bì niêm phong số 646MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, đây xác định vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

01 bật lửa gas màu đỏ và 01 dao lam đều đã qua sử dụng; 11 mảnh giấy bạc kích thước 1,5 x 5cm trong đó có 02 mảnh bị nám đen, 09 mảnh giấy vở học sinh kích thước 3 x 3 cm; 01 tẩu cuốn bằng giấy, đây xác định và những dụng cụ liên quan đến tội phạm và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về những nội dung khác Các đối tượng Hoàng Văn T, Vi Văn K, Lữ Văn M, Vì Văn C là những người mua ma túy của X để sử dụng cho bản thân. Quá trình điều tra xác định, nhân thân các đối tượng T, K, M, C không có tiền án, tiền sự về tội ma túy; không thu giữ được ma túy của các đối tượng này nên Công an huyện T đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với T, K, M, C.

Kha Văn V khai nhận có một vài lần mua ma túy của X sử dụng nhưng không nhớ cụ thể các lần. Có lần V nhìn thấy một vài đối tượng nghiện xuất hiện tại khu vực nhà trọ của mình nên đoán là X bán ma túy, nhưng V không trực tiếp chứng kiến việc X bán trái phép ma túy cho người khác. Việc X bán ma túy, V không tham gia và đã can ngăn nhưng do bản thân nghiện ma túy nên vẫn tiếp tục mua ma túy của X để sử dụng. Vì vậy, Cơ quan điều tra không xử lý hình sự mà chuyển Công an huyện T ra Quyết định xử phạt hành chính đối với V về hành vi trên.

Trong vụ án này còn có đối tượng bán trái phép chất ma túy cho X, quá trình điều tra chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở xử lý.

[8] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251và điểm d Khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: La Văn X 09 (Chín năm) tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 08 (Tám năm) tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp 02 tội bằng 17 (Mười bảy năm) tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 14/12/2021.

Căn cứ vào điểm d Khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Kha Văn V 08 (Tám năm) tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 14/12/2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 646MT/PC09 chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; 01 bật lửa gas màu đỏ và 01 dao lam đều đã qua sử dụng; 11 mảnh giấy bạc kích thước 1,5 x 5cm trong đó có 02 mảnh bị nám đen, 09 mảnh giấy vở học sinh kích thước 3 x 3 cm; 01 tẩu cuốn bằng giấy tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị La Văn X, Kha Văn V mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo La Văn X, Kha Văn V có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 78/2022/HS-ST

Số hiệu:78/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về