Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 75/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 75/2023/HS-ST NGÀY 15/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 15 tháng 12 năm 2023 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 73/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2023/QĐXXST - HS ngày 01/12/2023 đối với bị cáo:

Hoàng Văn H; sinh ngày 22/6/1990; tại huyện H, tỉnh T; nơi đăng ký thường trú: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh T; nơi ở hiện tại: Tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn H và bà Vũ Thị H; bị cáo có vợ là Phan Thị H và có 02 con.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 29/2021/HS-ST ngày 21/01/2021, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong bản án ngày 07/9/2021.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/6/2023 đến ngày 16/6/2023 chuyển tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hà Trung cho đến nay; có mặt.

Người làm chứng:

- Anh Hoàng Xuân L, sinh năm: 1994; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Anh Lại Thế T, sinh năm: 1991; nơi cư trú: tiểu khu 6, thị trấn H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Chị Phạm Thị C, sinh năm: 1993; nơi cư trú: tiểu khu 5, thị trấn H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Chị Lê Thị Hải Y, sinh năm: 2001; nơi cư trú: thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Anh Bùi Văn M, sinh năm: 1990; nơi cư trú: Thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 10/6/2023, Tổ công tác Đội điều tra án ma túy Công an huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Công an thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung đang làm nhiệm vụ tại khu vực nhà thi đấu huyện Hà Trung, thuộc tiểu khu 6, thị trấn Hà Trung, phát hiện Hoàng Xuân L, sinh năm 1994, trú tại thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, đang ngồi trong gầm cầu thang nhà thi đấu có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra ngay chỗ L ngồi thu giữ 01 (một) mảnh giấy bạc kích thước (4x7)cm, trên bề mặt có bám dính chất màu đen nghi là ma túy, niêm phong ký hiệu “Vụ Hoàng Xuân L”. Tại chỗ, L khai nhận: nguồn gốc số ma túy trên là ngày 09/6/2023 L mua của Hoàng Văn H 05 (năm) viên nén hình trụ tròn màu hồng là ma túy đựng trong 01 (một) túi ni lông mầu trắng với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) rồi đem về nhà sử dụng hết 04 (bốn) viên ma túy hồng phiến bằng hình thức hít. Còn 01 (một) viên ma túy L cất vào túi quần, đến khoảng 10 giờ 40 phút ngày 10/6/2023 L mang đến nhà thi đấu huyện Hà Trung sử dụng, khi vừa sử dụng xong thì bị phát hiện.

Căn cứ lời khai của Hoàng Xuân L, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh, làm việc với Hoàng Văn H, H đã đầu thú và tự nguyện giao nộp: 01 điện thoại nhãn hiệu Redmi màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 440.000đ (Bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) do bán ma túy cho Hoàng Xuân L, đồng thời Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Văn H, tại tiểu khu 3, thị trấn H, huyện H, tỉnh T, thu giữ: Các mảnh giấy bạc có các kính thước khác nhau đựng trong hộp thuốc lá đặt trên giường trong phòng khách, niêm phong ký hiệu “M1”.

Quá trình điều tra, xác định: Trong khoảng thời gian từ ngày 28/5/2023 đến ngày 09/6/2023, Hoàng Văn H mua 32 (Ba mươi hai) viên ma túy hồng phiến với giá 2.300.000đ (Hai triệu ba trăm nghìn đồng) của Bùi Văn M, sinh năm 1990, trú tại thôn B, xã Y, huyện H, tỉnh T, H đem về nhà sử dụng hết 08 (Tám) viên ma túy hồng phiến, còn lại 24 viên ma túy hồng phiến H đã 05 lần bán cho các đối tượng như sau:

Bán cho Lại Thế T, sinh năm 1991, trú tại tiểu khu 6, thị trấn H, huyện H 02 (hai) lần, gồm: Khoảng 14 giờ ngày 07/6/2023, tại khu tập thể nhà máy thuốc lá Thanh Hóa, thuộc tiểu khu 3, thị trấn H, Hoàng Văn H bán cho Lại Thế T 05 (năm) viên ma túy hồng phiến đựng trong 01 (một) gói nhỏ bọc bằng túi ni lông màu vàng với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Đến khoảng 18 giờ ngày 09/6/2023 cũng tại khu tập thể nhà máy thuốc lá Thanh Hóa, thuộc tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, Hoàng Văn H lại tiếp tục bán cho Lại Thế T 05 (năm) viên ma túy hồng phiến đựng trong 01 (một) gói nhỏ bọc bằng túi ni lông màu vàng với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), T đem về sử dụng.

Bán cho Lê Thị Hải Y, sinh năm 2001, ở thôn Đ, xã Y và Phạm Thị C, sinh năm 1993, ở tiểu khu 5, thị trấn H 02 lần, gồm: Lần thứ nhất: khoảng 20 giờ 30 phút ngày 29/5/2023, tại phòng trọ ở tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, Phạm Thị C đưa cho Lê Thị Hải Y 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), Y cầm tiền đưa cho Hoàng Văn H 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), H đưa lại cho Y 03 (ba) viên ma túy hồng phiến bọc bên ngoài bằng giấy bạc. Y cầm 03 (ba) viên ma túy đưa lại cho C, C cho lại Y 01 (một) viên ma túy về sử dụng. Lần thứ hai: khoảng 12 giờ 30 phút ngày 10/6/2023, tại chân cầu thang khu tập thể trọ ở tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, Phạm Thị C đưa cho Lê Thị Hải Y 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), Y cầm tiền đưa cho Hoàng Văn H 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), H đưa lại cho Y 06 (sáu) viên ma túy hồng phiến bọc bên ngoài bằng giấy bạc. Y cầm 06 (sáu) viên ma túy đưa lại cho C, C cho lại Y 01 (một) viên ma túy về sử dụng.

Tối ngày 09/6/2023 Hoàng Văn H bán cho Hoàng Xuân L 05 (năm) viên ma túy hồng phiến đựng trong túi ni lông màu trắng, bọc bên ngoài bằng khẩu trang màu xanh với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

Tại Kết luận giám định số 2262/KL-KTHS ngày 16/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Tìm thấy chất ma túy loại Methamphetamine trong chất bám dính màu đen của phong bì niêm phong gửi giám định. Không xác định được khối lượng chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: Các mảnh giấy bạc; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh đã qua sử dụng của Hoàng Văn H và số tiền 440.000đ (Bốn trăm bốn mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 86/CT-VKS ngày 20/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Hoàng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 251; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù đến 09 (chín) năm tù; về vật chứng: tịch thu tiêu hủy các mảnh giấy bạc; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh, số tiền 440.000 đồng (bốn trăm bốn mươi nghìn đồng); truy thu của bị cáo 1.860.000 đồng do phạm tội mà có; buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ được và bản kết luận giám định, đủ cơ sở khẳng định: Trong khoảng thời gian từ ngày 28/5/2023 đến ngày 09/6/2023, Hoàng Văn H nhiều lần mua ma túy về sử dụng và bán kiếm lời. Cụ thể, vào ngày 07/6/2023 và ngày 09/6/2023 H đã bán cho Lại Thế T 02 (hai) lần ma túy hồng phiến lấy 1.000.000đ (Một triệu đồng); ngày 29/5/2023 và ngày 10/6/2023 bán cho Phạm Thị C và Lê Thị Hải Y 02 (hai) lần ma túy hồng phiến lấy 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) và ngày 09/6/2023 bán cho Hoàng Xuân L 01 lần ma túy hồng phiến lấy 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung đã truy tố bị cáo Hoàng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Đây là chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là đối tượng đang có một tiền án, ngày 21/01/2021, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặc dù đã chấp hành xong bản án nhưng bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội do cố ý, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe phòng ngừa chung.

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự; quá trình khám xét tại nơi ở bị cáo đã đầu thú khai nhận các lần bán ma túy cho Lại Thế T, Phạm Thị C, Lê Thị Hải Y, đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Cần áp dụng các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Trong vụ án này, Bùi Văn M chỉ thừa nhận bán trái phép chất ma túy cho Hoàng Văn H một lần vào ngày 09/6/2023. Hành vi bán trái phép chất ma túy này của Bùi Văn M đã bị khởi tố theo Quyết định khởi tố vụ án số 74/QĐ-ĐCSKT-MT ngày 25/9/2023 và Quyết định khởi tố bị can số 192/QĐ-ĐCSKT-MT ngày 29/9/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hà Trung, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối Bùi Văn M trong vụ án này là phù hợp.

Đối với Hoàng Xuân L, là người mua túy về để sử dụng, do đã sử dụng hết và qua giám định không xác định được khối lượng chất ma túy bám dính trên tờ giấy bạc thu giữ của Hoàng Xuân L, nên không đủ căn cứ xử lý hình sự đối với L; Đối với Lại Thế T, Phạm Thị C, Lê Thị Hải Y mua ma túy về nhưng cũng đã sử dụng hết, nên không có căn cứ để xử lý hình sự. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L, T, C và Y là đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về vật chứng: Các mảnh giấy bạc, do không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 440.000 đồng thu giữ của H là tiền do bị cáo phạm tội mà có, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh là phương tiện liên lạc để phạm tội nên phải tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, tổng số tiền bị cáo phạm tội mà có trong 5 lần bán ma túy cho T, C, , L là 2.300.000 đồng, bị cáo mới tự nguyện giao nộp 440.000 đồng, số còn lại 1.860.000 đồng phải truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 251; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h, khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Bị cáo Hoàng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 09 (Chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 10/6/2023.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: các mảnh giấy bạc được đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành dán kín.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh; số tiền 440.000đ (Bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2021/0002181 ngày 13/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung.

Truy thu của bị cáo số tiền 1.860.000đ (Một triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng), để nộp ngân sách Nhà nước (Đặc điểm của phong bì niêm phong, chiếc điện thoại và vật chứng tịch thu tiêu hủy theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hà Trung ngày 13/12/2023;).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Hoàng Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 75/2023/HS-ST

Số hiệu:75/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về