Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 75/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 75/2021/HS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai (Đường B2, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2021/TLST- HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 7 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Anh V - Sinh ngày 21/3/1987 tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Nơi cư trú: Tổ 8, phường X, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Hùng M và bà Hoàng Thị B; Vợ là Trần Thị T; Bị cáo chưa có con; Tiền án: Không;

Tiền sự: 01 tiền sự. Tại quyết định: 163/QĐ-XPHC ngày 28/11/2019, Công an thành phố Lào Cai xử phạt 1.000.000 đồng đối với Phạm Văn V về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo chưa chấp hành Nhân thân: Bản án số 176/2008/HSPT ngày 28/01/2008 của Tòa án nhân dân, thành phố Hà Nội xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo; Bản án số 130/2014/HSST ngày 12/9/2014 của Tòa án nhân dân, thành phố Lào Cai xử phạt 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Bản án số 144/2014/HSST ngày 24/9/2014 của Tòa án nhân dân, thành phố Lào Cai xử phạt 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Bản án số 09/2017/HSST ngày 23/2/2017 của Tòa án nhân dân, thành phố Lào Cai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai. “Có mặt”.

2. Họ và tên: Nguyễn Thị Kiều O - Sinh ngày 04/10/1993 tại huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.

Nơi cư trú: Tổ 29, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị H; Chồng Doãn Hưng Q; Bị cáo có 03 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không Bị bắt tạm giữ từ ngày 25/3/2021 đến ngày 30/3/2021, hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. “Có mặt”.

3. Họ và tên: Nguyễn Duy M - Sinh ngày 20/02/1984 tại thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.

- Nơi cư trú: Tổ 12, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Q và bà Nguyễn Thị N; Vợ Hoàng Thị Hà T; Bị cáo có 03 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không Nhân thân: Quyết định số: 128/CSĐT ngày 22/10/2004 của Công an thành phố Yên Bái xử phạt 500.000 đồng về hành vi cản trở không chấp hành yêu cầu của người thi hành công vụ; Quyết định số: 92/CSĐT ngày 01/9/2006 của Công an thành phố Yên Bái xử phạt 500.000 đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2021 đến ngày 31/5/2021, hiện đang áp dụng biên pháp ngăn chặn bảo lĩnh. “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 25/3/2021, tổ công tác đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai làm nhiệm vụ tại khu vực đường L, thuộc tổ 12, phường K, thành phố L phát hiện 01 xe ô tô Taxi biển kiểm soát 24A - 163.79 dừng đỗ ở ven đường trước cửa nhà số 163, đường L và có 01 người nam giới đi từ trong nhà số 163 đến gần chiếc xe có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy nên tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính người nam giới trên. Người nam giới khai tên là Nguyễn Duy M (sinh ngày 20/02/1984; nơi cư trú: số nhà 163, đường L, tổ 12, phường K, thành phố Lào Cai) đang cất giấu ma túy trên người và lấy từ trong túi quần phía trước, bên phải đang mặc giao nộp 01 túi nilon màu vàng, trên một mặt có chữ “sipiao” bên trong có nhiều mảnh giấy màu trắng gói 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 20 viên nén hình tròn, màu hồng, trên mặt của mỗi viên nén được dập chìm chữ “WY”. Nguyễn Duy M khai nhận là ma túy “Hồng Phiến” mua của người nữ giới đang ngồi ở trên xe ô tô Taxi biểm kiểm soát 24A - 163.79 đang dừng đỗ trước cửa nhà với giá 1.800.000 đồng, mục đích để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định và tạm giữ của Nguyễn Duy M 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu đen.

Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra chiếc xe ô tô Taxi biểm kiểm soát 24A - 163.79. Trên xe có Đỗ Văn T (sinh năm 1994; nơi cư trú: thôn L, xã Q, huyện B, tỉnh Lào Cai) ngồi ở vị trí ghế lái; ngồi tại ghế phụ, bên phải là Nguyễn Thị Kiều O (sinh ngày 04/10/1993; nơi cư trú: tổ 29, phường C, thành phố L). Trên tay Nguyễn Thị Kiều O đang cầm 1.800.000 đồng. Quá trình kiểm tra O khai nhận vừa bán 20 viên ma túy “Hồng Phiến” cho Nguyễn Duy M với giá 1.800.000 đồng, số ma túy trên O mua của Phạm Anh V (sinh ngày 21/3/1987; nơi cư trú: Thôn S, xã C, thành phố L) với giá 1.400.000 đồng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tạm giữ của Nguyễn Thị Kiều O: 01chứng M nhân dân mang tên Nguyễn Thị Kiều O; 01điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng; 2.100.000 đồng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Duy M thu giữ 01 túi vải bên trong có 01túi nilon màu trắng có chứa 04 viên đạn bằng kim loại màu vàng dài 4,5cm; 01 khẩu súng bằng kim loại dài 17 cm, trên một mặt khẩu súng có chữ “SIPJA GAS PISTOL” bên trong ổ tiếp đạn có 05 viên đạn; 200.000.000 đồng; tiền đô la Mỹ: 107 tờ mệnh giá 100 đô, 59 tờ mệnh giá 02 đô và 01 két sắt nhãn hiệu Hòa Phát.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị Kiều O thu giữ 01 cân điện tử màu trắng, 10 túi nilon màu trắng, 01 chai nhựa trên nắp trai được đục thủng hai lỗ có gắn 02 đoạn ống hút nhựa.

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/3/2021, tổ công tác đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai đã kiểm tra hành chính đối với Phạm Anh V tại trước cửa nhà số 768, đường T, tổ 2, phường N, thành phố L. Quá trình kiểm tra, Phạm Anh V khai nhận vừa vứt túi ma túy xuống đất cạnh vị trí V ngồi và nhặt từ dưới đất, cạnh chân phải của V 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng, 04 viên nén màu hồng và chất bột khô màu hồng; Phạm Anh V tiếp tục nhặt từ dưới đất, phía sau lưng 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu “SÀI GÒN” bên trong có 01 túi nilon màu vàng - xanh, bên trong có 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng giao nộp cho tổ công tác. Phạm Anh V khai nhận các hạt tinh thể rắn màu trắng là ma túy “Đá”, 04 viên nén màu hồng và chất bột khô màu hông là ma túy “Hồng Phiến”, cất giấu để bán kiếm lời. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng thu giữ theo quy định. Ngoài ra, còn tạm giữ của Phạm Anh V: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Anh V tại thôn S, xã C, thành phố L. Thu giữ: 01 két sắt màu xám, nhãn hiệu “HANOBANK”.

Quá trình điều tra Nguyễn Thị Kiều O khai nhận khoảng 12 giờ ngày 25/3/2021, O đang ở nhà thì Nguyễn Duy M gọi điện hỏi mua 20 viên ma túy Methamphetamine với giá 1.800.000 đồng, O đồng ý. Sau đó O gọi điện cho Phạm Anh V hỏi mua 20 viên ma túy Methamphetamine với giá 70.000 đồng/viên, hẹn V khi nào bán được thì O sẽ trả tiền. Sau đó O thuê xe Taxi hãng Sa Pa, biển kiểm soát 24A - 163.79 do anh Đỗ Văn T điều khiển đi xuống nhà Phạm Anh V tại thôn S. Đến nơi O đi vào nhà V thì Hoàng Mạnh C (sinh năm 1996; nơi cư trú: thôn Đ, xã H, thành phố L) đưa cho O 01túi nilon màu vàng, trên một mặt có chữ “Sipiao” bên trong có nhiều mảnh giấy trắng gói 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 20 viên ma túy Methamphetamine. Sau khi mua được ma túy, O bảo anh Đỗ Văn T chở đến trước cửa nhà số 163, đường L, tổ 12, phường K, thành phố L, rồi gọi điện cho Nguyễn Duy M ra trước cửa nhà, bán cho M 20 viên ma túy Methamphetamine với giá 1.800.000 đồng qua cửa kính ô tô. Sau khi bán được ma túy, O đang cầm 1.800.000 đồng trên tay thì bị tổ Công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai phát hiện và bắt quả tang cùng tang vật, Nguyễn Duy M khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 25/3/2021, Nguyễn Duy M gọi điện cho Nguyễn Thị Kiều O hỏi mua 20 viên ma túy Methamphetamine với giá 1.800.000 đồng và hẹn địa điểm mua bán ma túy tại trước cửa nhà số 163, đường L, tổ 12, phường K, thành phố L. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, O gọi điện cho M ra trước cửa nhà để mua bán ma túy. Khi M ra trước cửa thì thấy O ngồi tại ghế phụ, bên phải xe ô tô biển kiểm soát 24A - 163.79, M trả cho O 1.800.000 đồng, O đưa cho M 01 túi nilon màu vàng, trên một mặt có chữ “Sipiao” bên trong có nhiều mảnh giấy trắng gói 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 20 viên ma túy Methamphetamine. Nguyễn Duy M cất giấu túi ma túy vào trong túi quần phía trước, bên phải đang mặc rồi đi vào nhà thì bị thì bị tổ Công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai phát hiện và bắt quả tang cùng tang vật Phạm Anh V khai nhận: Khoảng 10 giờ ngày 17/3/2021, Phạm Anh V điều khiển xe mô tô đi vào khu vực Km 25 thị trấn Phong Hải, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai chơi. Tại đây, Phạm Anh V đã mua của một người nam giới (không biết tên, địa chỉ) 30 viên ma túy Methamphetamine với giá 1.500.000 đồng được đựng trong 01 túi nilon màu vàng, trên một mặt có chữ “Sipiao” bên trong có nhiều mảnh giấy trắng gói 01 túi nilon màu trắng và 05 chỉ ma túy Methamphetamine với giá 2.500.000 đồng được đựng trong 01 túi nilon màu trắng. Sau khi mua được ma túy Phạm Anh V đi về nhà, lấy 10 viên ma túy Methamphetamine trong tổng số 30 viên cho vào 01 túi nilon màu trắng. Sau đó Phạm Anh V cất giấu toàn bộ số ma túy đã mua vào trong tủ đựng quần áo trong phòng ngủ. Ngày 20/3/2021, Phạm Anh V lấy 06 viên ma túy Methamphetamine trong túi nilon đựng tổng số 10 viên; một phần ma túy Methamphetamine (các hạt tinh thể rắn, màu trắng) cho vào 01 túi nilon màu trắng để sử dụng, sau khi sử dụng không hết lại cất túi ma túy này vào tủ. Khoảng 08 giờ ngày 25/3/2021, Phạm Anh V lấy 01 túi nilon chứa ma túy Methaphetamine (các hạt tinh thể rắn, màu trắng) cho vào 01 túi nilon màu vàng - xanh rồi cho vào vỏ bao thuốc lá “SÀI GÒN”, 01 túi nilon chứa 04 viên ma túy Methamphetamine và 01 túi nilon chứa ma túy Methaphetamine (các hạt tinh thể rắn, màu trắng) cất giấu vào trong túi quần phía sau, bên phải đang mặc rồi đi xem “Đá Gà” tại trước cửa nhà số 768, đường T, tổ 2, phường N, thành phố L thì Nguyễn Thị Kiều O gọi điện hỏi mua 20 viên ma túy Methamphetamine, Phạm Anh V nói giá 70.000 đồng/viên, O đồng ý và hẹn khi nào bán được sẽ trả tiền, hẹn địa điểm mua bán tại nhà V thôn S, xã C.

Sau đó, Phạm Anh V gọi điện cho anh Vàng Văn L (sinh năm 1995; nơi cư trú: thôn T, xã C, thành phố L, tỉnh Lào Cai) bảo L đến nhà V lấy túi nilon chứa 20 viên ma túy Methamphetamine được gói bên ngoài bằng các mảnh giấy trắng cho vào 01 túi nilon màu vàng một mặt túi có chữ “Sipiao” để bán cho O. Khi O đi vào trong nhà V thì Vàng Văn L nhờ Hoàng Mạnh C (sinh năm 1996; nơi cư trú: thôn Đ, xã H, thành phố L là em họ của Phạm Anh V hiện đang ở nhà V) đưa túi ma túy cho O.

Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi Phạm Anh V đang xem “Đá Gà” tại trước cửa nhà số 768, đường T, tổ 2, phường N, thành phố L thì bị tổ Công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bản kết luận giám định số: 79/GĐMT ngày 29/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận về vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Duy M và Nguyễn Thị Kiều O: 1,93 gam các viên nén hình trụ tròn, màu hồng, có đặc điểm giống nhau, trên một mặt của mỗi viên nén được dập chìm ký tự “WY” gửi giám định là chất ma túy Methamphetamine.

Bản kết luận giám định số: 80/GĐMT ngày 29/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận về vật chứng thu giữ của Phạm Anh V: Mẫu M1:

0,44 gam các viên nén màu hồng và chất bột khô màu hồng gửi giám định là loại chất ma túy Methaphetamine; Mẫu M2: 0,46 gam gam các hạt tinh thể rắn màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Methaphetamine; Mẫu M3: 4,97 gam các hạt tinh thể rắn màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Methaphetamine.

Kết luận giám định số: 2660/C09-P3 ngày 07/4/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận về khẩu súng và 09 viên đạn thu giữ của Nguyễn Duy M: Khẩu súng gửi giám định là súng kiểu ổ quay bắn đạn cao su cỡ 10mm, thuộc công cụ hỗ trợ, không phải vũ khí quân dụng. Hiện khẩu súng này còn sử dụng để bắn được; 09 viên đạn gửi giám định là đạn cao su cỡ 10mm, thuộc đạn công cụ hỗ trợ, không phải vũ khí quân dụng, sử dụng bắn được bằng khẩu súng trên.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 65/CT-VKS - TPLC ngày 17/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố Phạm Anh V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Truy tố Nguyễn Thị Kiều O về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Truy tố Nguyễn Duy M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 điều 251; Điểm s, t khoản 1 khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Anh V 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1 điều 251; Điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kiều O 02 năm 06 tháng đến 02 năm 09 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 249; Điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Duy M 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Không phạt bổ sung đối với các bị cáo. Xử lý vật chứng vụ án, tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người chứng kiến, tang vật thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Các bị cáo khai nhận: Ngày 17/3/2021 tại Km 25 thị trấn Phong Hải, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai bị cáo Phạm Anh V đã mua của một người nam giới không biết tên, địa chỉ 7,80 gam ma túy Methamphetamine mục đích vừa để sử dụng, vừa để bán kiếm lời. Ngày 25/3/2021, Phạm Anh V đã bán cho Nguyễn Thị Kiều O 1,93 gam ma túy Methamphetamine với giá 1.400.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý của Phạm Anh V, Nguyễn Thị Kiều O đã bán lại cho Nguyễn Duy M để M sử dụng, khi đang bán lại 1,93 gam ma túy Methamphetamine cho Nguyễn Duy M thì bị bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.

Như vậy với hành vi mua bán khối lượng 7,80 gam ma túy Methamphetamine như trên đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phạm Anh V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Nguyễn Thị Kiều O mua bán khối lượng 1,93 gam ma túy Methamphetamine đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Thị Kiều O phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Nguyễn Duy M mua 1,93 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng, đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Duy M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, bị cáo Phạm Anh V, Nguyễn Duy M có nhân thân xấu, vì vậy cần phải xét xử một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, bị cáo V chủ động, tích cực phối hợp cung cấp nhiều thông tin, tài liệu có giá trị chứng minh hành vi phạm tội của bị can khác được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai xác nhận, bị cáo có ông ngoại được tặng thưởng huân chương kháng chiến chống pháp hạng nhất, vì vậy cần cho bị cáo Nguyễn Thị Kiều O, Nguyễn Duy M được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy đinh tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự, bị cáo V được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có [5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm 5.000.000 đến 500.000.000 đồng...”, do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa bị cáo là người lao động tự do, không có việc làm ổn định, lại nghiện ma túy nên không có thu nhập gì, bị cáo O, M mỗi bị cáo phải nuôi 03 con nhỏ. Vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Đối với bị cáo Phạm Anh V đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử với mức án từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù là cao vì bị cáo mua bán với khối lượng ma tuý 7,80 gam Methamphetamine bị cáo được hưởng 3 tình tiết giảm nhẹ vì vậy cần xét xử bị cáo dưới mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp [7] Về vật chứng vụ án: Số ma tuý còn lại sau trích mẫu giám định là 1,44 gam ma túy Methamphetamine (thu giữ của Nguyễn Duy M, Nguyễn Thị Kiều O); 5,41 gam ma túy Methamphetamine (thu giữ của Phạm Anh V); 01túi nilon màu vàng, trên một mặt có chữ “Sipiao” bên trong có nhiều mảnh giấy trắng; 01 túi vải thu giữ của Nguyễn Duy M; 01 cân điện tử màu trắng; 10 túi nilon màu trắng; 01 chai nhựa, trên nắp trai được đục thủng hai lỗ có gắn 02 đoạn ống hút nhựa thu giữ của Nguyễn Thị Kiều O. Cần tịch thu tiêu huỷ.

03 chiếc điện thoại thu giữ của các bị cáo là điện thoại sử dụng vào việc trao đổi mua bán ma tuý cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; 01 điện thoại thu giữ của Phạm Anh V không sử dụng vào việc phạm tội cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Số tiền 3.900.000 đồng thu của Nguyễn Thị Kiều O cần tịch thu 1.800.000 là tiền do phạm tội mà có sung vào ngân sách Nhà nước. Tạm giữ để đảm bảo thi hành án 200.000 đồng. Trả lại cho bị cáo O 1.900.000 đồng và 01 chứng M nhân dân.

- Ngoài ra trong quá trình khám xét chỗ ở của Nguyễn Duy M tạm giữ 200.000.000 đồng; 107 tờ mệnh giá 100, 59 tờ mệnh giá 2 Đô la Mỹ; 01 két sắt nhãn hiệu Hòa Phát. Số tài sản này không liên quan đến việc phạm tội Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai trả lại cho chị Hoàng Thị Hà T là đúng quy định pháp luật; Đối với 09 viên đạn bằng kim loại cơ quan giám định không hoàn trả lại; 01 khẩu súng bằng kim loại đã chuyển sang đội Quản lý hành chính Công an thành phố Lào Cai để xử lý theo quy định pháp luật. 01 két sắt nhãn hiệu Hanobank thu giữ trong quá trình khám xét chỗ ở của Phạm Anh V, là tài sản hợp pháp của bà Hoàng Thị B, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào trả cho bà Hoàng Thị B là đúng quy định pháp luật.

[8] Ngoài ra đối với hành vi cất giấu khẩu súng bằng kim loại và 09 viên đạn Nguyễn Duy M không phải vũ khí quân dụng, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đối với Vàng Văn L, Phạm Anh V khai là người được bị can V nhờ lấy ma túy ở trong phòng của V để bán cho Nguyễn Thị Kiều O, hành vi của Vàng Văn L có dấu hiệu đồng phạm với Phạm Anh V trong việc mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, quá trình điều tra, xác minh Vàng Văn L vắng mặt ở địa phương, không biết hiện đang làm gì, ở đâu, chưa điều tra làm rõ được. Khi nào xác minh, làm rõ được sẽ xử lý sau.

[9] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

Căn cứ vào điểm i khoản 2 điều 251; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Phạm Anh V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bị cáo Phạm Anh V 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25/3/2021.

Căn cứ vào khoản 1 điều 251; Điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kiều O phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bị cáo Nguyễn Thị Kiều O 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án được khấu trừ 06 (sáu) ngày tạm giữ.

Căn cứ vào điểm c khoản 1, Điều 249; Điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bộ luật Hình sự. Phạt bị cáo Nguyễn Duy M 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án được khấu trừ 02 (hai) tháng 07 (bảy) ngày tạm giữ, tạm giam.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, 3 điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 1,44 gam ma túy Methamphetamine được niêm phong theo quy định bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Duy M và Nguyễn Thị Kiều O ngày 25/3/2021 tại tổ 12, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai”; 5,41 gam ma túy Methamphetamine được niêm phong theo quy định bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Phạm Anh V ngày 25/3/2021 tại tổ 2, phường Nam Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”; 01túi nilon màu vàng, trên một mặt có chữ “Sipiao” bên trong có nhiều mảnh giấy trắng; 01 túi vải thu giữ của Nguyễn Duy M; 01 cân điện tử màu trắng; 10 túi nilon màu trắng; 01 chai nhựa, trên nắp trai được đục thủng hai lỗ có gắn 02 đoạn ống hút nhựa thu giữ của Nguyễn Thị Kiều O.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu đen của Nguyễn Duy M; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng và số tiền 1.800.000 đồng của Nguyễn Thị Kiều O; 01 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám của Phạm Anh V.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án của Nguyễn Thị Kiều O số tiền 200.000 đồng, của Phạm Anh V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu vàng.

- Trả lại cho Nguyễn Thị Kiều O số tiền 1.900.000 đồng và 01 chứng minh nhân dân.

3. Về án phí:

Căn cứ vào Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Anh V, Nguyễn Thị Kiều O, Nguyễn Duy M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 75/2021/HS-ST

Số hiệu:75/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về