Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 09/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 6 năm 2023 tại Tòa án nhân dân tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 38/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2023/QDDXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Ngô Văn V - sinh ngày: 12/10/1983, tại K, H; nơi thường trú: thôn T, xã H, huyện K, thành phố H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 09/12; dàn tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Văn C và bà: Nguyễn Thị L; có vợ là: Nguyễn Thị Kim L1 và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 22/11/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Ngô Văn V: bà Hoàng Thị L2- Luật sư Công ty L6, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q, địa chỉ: số D, phường Q, thành phố U, tỉnh Q, có mặt.

2. Họ và tên: Đỗ Xuân L3 - sinh ngày: 17/6/1988, tại K, H: nơi thường trú: tiểu khu T, thị trấn N, huyện K, thành phố H; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Hữu L4 và bà: Bùi Thanh L5; có vợ là: Nguyễn Thị Thùy T (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 24/11/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Xuân L3: ông Đào Bá Y- Luật sư Văn phòng L7, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q, địa chỉ: số nhà C, phố L, phường Y, thành phố H, tỉnh Q, có mặt.

3. Họ và tên: Nguyễn Đình T1 - sinh ngày: 03/01/1989, tại huyện K, thành phố H; nơi thường trú: thôn A, xã K, huyện K, thành phố H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình N và bà: Đỗ Thị T2; có vợ là: Trương Thị X và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo đầu thú ngày 06/12/2022, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt.

*/ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn Thị Kim L1, sinh năm 1985; địa chỉ: thôn T, xã H, huyện K, thành phố H, có mặt.

*/ Người làm chứng:

1. Anh Phạm Quốc T3, sinh năm 2000; địa chỉ: thôn Đ, xã L, thị xã Q, tỉnh Q, vắng mặt.

2. Anh Bùi Văn T4, sinh năm 1973; địa chỉ: khu C, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q, vắng mặt.

3. Anh Lại Hồng Q, sinh năm 1972; địa chỉ: khu A. thị trấn D, huyện T, tỉnh Thái Bình, vắng mặt.

4. Anh Cao Văn C1, sinh năm 1992; địa chỉ: thôn Đ, xã L, thị xã Q, tỉnh Q, vắng mặt.

*/ Người chứng kiến:

1. Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1973; địa chỉ: khu C, phường Q, thị xã Q, tỉnh Q, vắng mặt.

2. Anh Đoàn Văn C2, sinh năm 1964; địa chỉ: thôn N, xã T, thị xã Q, tỉnh Q, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 20 phút ngày 22/11/2022, tại Trạm thu phí cầu B, thuộc thôn V, xã L, thị xã Q, tỉnh Q, Công an thị xã Q bắt quả tang Ngô Văn V thuê Đỗ Xuân L3 lái xe ô tô Kia morning biển kiểm soát 15A-xxxx mang ma túy đi để bán trái phép. Vật chứng thu giữ trên xe ô tô: thu trong nắp bình xăng 01 bọc giấy bạc bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa 99 viên nén hình chữ nhật màu xanh, kết quả giám định là ma tuý, loại MDMA có tổng khối lượng 43,245 gam; thu trên tấm chắn nắng bên trái phía trước ghế lái 01 túi nilon màu trắng bên trong có 04 túi nilon đều chứa chất tinh thể màu trắng, kết quả giám định là ma tuý Ketamine có tổng khối lượng 3,179 sam (Kết luận giám định số 1911/KL-KTHS ngày 30/11/2022 của Phòng K công an tỉnh Q).

Ngô Văn V khai: toàn bộ số ma túy trên, V cất giấu nhằm mục đích bán kiếm lời. Riêng đối với 99 viên ma túy MDMA, L3 là người giúp sức mở lắp bình xăng để V cất giấu. Ngoài ra, trước đó ngày 21/11/2022, V còn đưa 02 sói ma túy Ketamine cho Nguyễn Đình T1 mang đi bán cho Phạm Quốc T3 (sinh năm 2000, trú tại thôn Đ, xã L, thị xã Q, tỉnh Q) tại thị xã Q.

Ngày 24/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q, tỉnh Q giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đỗ Xuân L3. Ngày 06/12/2022, Nguyễn Đình T1 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q đầu thú.

Quá trình điều tra xác định hành vi phạm tội của các bị can như sau:

Chiều ngày 21/11/2022, Phạm Quốc T3 gọi điện cho Ngô Văn V đặt mua 02 túi ma túy Ketamine với giá 1.300.000 đồng, nhưng xin nợ tiền, V đồng ý và bảo khi nào có ma túy sẽ mang sang cho T3. Đến tối ngày 21/11/2022, V đến khu vực Đường T thuộc phường C, quận L, thành phố H mua của một người đàn ông không rõ lai lịch 99 viên ma túy thuốc lắc giá 20.000.000 đồng và 04 túi ma túy Ketamine với giá 3.000.000 đồng để mang về bán kiếm lời. Sau khi mua được số ma tuý trên, V lấy một ít Ketamine vừa mua được cho vào 02 túi nilon mục đích để mang sang Q bán cho T3. Đến khoảng 23 giờ 50 phút cùng ngày 21/11/2022, V gọi điện thoại cho Nguyễn Đình T1 đến nhà Văn, rồi đưa số ma túy này và số điện thoại của T3 cho T1, để T1 liên hệ mang ma túy sang thị xã Q bán cho T3, V thỏa thuận sẽ trả cho T1 600.000 đồng tiền công. Sau khi T1 nhận 02 túi ma túy Ketamine của V, T1 điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 15A-xxxx (xe của công ty T5, T1 lái thuê) mang số ma túy trên đến khu vực gần cây xăng xã L thị xã Q, tỉnh Q, rồi gọi điện thoại cho T3 đến giao nhận ma túy trên xe ô tô của T1.

Số ma túy còn lại gồm: 04 túi ni lon chứa ma tuý Ketamine (3,179 gam) Văn cất giấu trên tấm chắn nắng bên trái phía trước ghế lái xe ô tô Kia morning biển kiểm soát 15A-xxxx của V; 99 viên ma tuý thuốc lắc (43,245 gam MDMA) Văn cất giấu trong túi quần phía trước bên phải của V đang mặc, mục đích để tiếp tục bán. Khoảng 17 giờ ngày 22/11/2022, Phạm Quốc T3 gọi điện hỏi mua ma túy của V. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, do người mệt nên V đã gọi điện thuê Đỗ Xuân L3 lái xe ô tô của V chở V đến chỗ T3 và hứa trả công 600.000 đồng, L3 đồng ý. V điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 15A-xxxx đến khu vực nhà văn hóa huyện K, thành phố H đón và giao cho L3 lái xe, trên đường đi V nói cho L3 biết là V đang mang ma túy sang thị xã Q để bán cho khách, nhưng không nói cho L3 biết về số ma túy Ketamine cất giấu trên xe ô tô. Khi đi đến đoạn đường cao tốc thuộc xã Đ, huyện K, thành phố H, V bảo L3 dừng xe mở nắp bình xăng, để Văn giấu ma tuý, L3 điều khiển xe vào rìa đường bên phải dừng xe, L3 ngồi tại ghế lái mở nắp bình xăng, sau đó V xuống xe cất giấu túi nilon chứa 99 viên ma túy thuốc lắc vào nắp bình xăng, rồi L3 tiếp tục điều khiển xe ô tô chở V đến khu vực trạm thu phí cầu B1, thuộc xã L, thị xã Q, tỉnh Q, thì bị Công an thị xã Q kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Ngô Văn V, Đỗ Xuân L3 và Nguyễn Đình T1 đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Những người làm chứng: anh Phạm Quốc T3, anh Bùi Văn T4, anh Lại Hồng Q, anh Cao Văn C1 và những người chứng kiến: anh Nguyễn Văn B, anh Đoàn Văn C2, vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo về nội dung vụ án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn Thị Kim L1 trình bày: chị là vợ của bị cáo Ngô Văn V, vợ chồng chị tích góp và vay mượn mua được chiếc xe ô tô Kia morning để cho V chạy dịch vụ, việc V dùng xe ô tô trên để chở ma túy chị không biết, vì đây là tài sản chung của vợ chồng chị nên chị đề nghị trả lại chị ½ trị giá chiếc xe ô tô trên.

Tại Cáo trạng số 45/CT-VKSQN-P1 ngày 12/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đã truy tố: Ngô Văn V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Đỗ Xuân L3 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Đình T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q giữ nguyên Cáo trạng truy tố các bị cáo: Ngô Văn V, Đỗ Xuân L3 và Nguyễn Đình T1 về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- điểm h khoản 3 Điều 251; Điều 17; Điều 58: điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Ngô Văn V từ 15 năm 06 tháng đến 16 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 22/11/2022.

- điểm b khoản 3 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đỗ Xuân L3 từ 09 năm đến 10 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 24/11/2022.

- khoản 1 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Đình T1 từ 24 tháng đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 06/12/2022.

Về vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 1911/KL-KTHS và 03 sim điện thoại.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 02 điện thoại di động các loại thu giữ của bị cáo V và bị cáo T1. Trả lại 01 điện thoại di động (kèm 01 sim) cho bị cáo L3.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning biển kiểm soát 15A-xxxx kèm theo 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ngô Văn V và 01 giấy chứng nhận kiểm định xe mang tên Ngô Văn V. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim L1 ½ giá trị chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning biển kiểm soát 15A-xxxx.

- Trả lại cho bị cáo V số tiền 1.580.000 đồng, trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim T1 số tiền 14.000.000 đồng.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.

Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Ngô Văn V: đồng tình với Cáo trạng của Viện kiểm sát và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q về tội danh, điều khoản đã truy tố, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo V, bị cáo V có nhân thân tốt; thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; có hoàn cảnh gia đình khó khăn; có bố và mẹ đẻ là người có công với nhà nước, bố bị nhiễm chất độc mầu da cam nên mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị là nặng nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Đỗ Xuân L3: đồng tình với Cáo trạng của Viện kiểm sát và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q về tội danh, điều khoản đã truy tố, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo L3, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; có hoàn cảnh gia đình khó khăn; có bố đẻ là người có công với nhà nước; bản thân đã từng tham gia lực lượng Công an và được Chủ tịch nước tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang; bị cáo đồng phạm với vai trò không đáng kể nên đề nghị Hội đồng xét xử xử bị cáo mức án dưới khung hình phạt từ 07 đến 08 năm tù.

Tại phiên tòa bị cáo V và bị cáo L3 đồng tình quan điểm của luật sư, không có ý kiến bổ sung, không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q và bản luận tội của Kiểm sát viên; bị cáo T1 không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân. Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: tại phiên tòa các bị cáo Ngô Văn V, Đỗ Xuân L3 và Nguyễn Đình T1 khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, phù hợp với Kết luận giám định số 1911/KLGĐ ngày 30/11/2022 và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận:

Ngày 21/11/2022, tại xã L, thị xã Q, tỉnh Q, Ngô Văn V, Nguyễn Đình T1 có hành vi bán trái phép 02 túi ma túy Ketamine cho Phạm Quốc T3 với giá 1.300.000 đồng.

Hồi 18 giờ 20 phút ngày 22/11/2022, tại Trạm thu phí cầu B, thuộc thôn V xã L, thị xã Q, tỉnh Q, Ngô Văn V có hành vi tàng trữ 43,245 gam ma tuý, loại MDMA và 3,179 gam ma túy, loại Ketamine trên xe ô tô biển kiểm soát 15A-xxxx nhằm mục đích để bán, thì bị Công an thị xã Q bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Trong đó, Đỗ Xuân L3 giúp sức cho Ngô Văn V tàng trữ để bán 43,245 gam ma túy MDMA.

Hành vi nêu trên của bị cáo Ngô Văn Văn P vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; hành vi của Đỗ Xuân L3 phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự; hành vi của Nguyễn Đình T1 phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý về ma tuý của Nhà nước. Các bị cáo biết rõ việc tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng vẫn cố tình vi phạm nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội đã gây ra. Do đó cần tuyên cho các bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và đồng thời có tác dụng giáo dục răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về vai trò: vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó xác định bị cáo V đồng phạm với bị cáo L3; bị cáo V đồng phạm với bị cáo T1; bị cáo L3 và T1 phạm tội độc lập với nhau.

Bị cáo V là người chuẩn bị ma túy, trực tiếp đi bán, thuê T1 đi giao ma túy cho mình và thuê L3 chở mình đi bán ma túy nên giữ vai trò đầu trong vụ án; Bị cáo L3 giúp sức cho bị cáo V trong việc vận chuyển số lượng lớn ma túy đi bán nên giữ vai trò thứ hai; bị cáo L3 giúp sức cho bị cáo V trong việc bán ma túy, số lượng ma túy bị cáo giúp sức ít nên giữ vai trò cuối cùng trong vụ án.

[5] Về nhân thân: các bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo V phạm tội 02 lần trở lên nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm 2 khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; bị cáo L3 và T1 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo L3 được Chủ tịch nước tặng thưởng Huy chương chiến sĩ vẻ vang nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo T1 ra đầu thú; bị cáo V có bố, mẹ đẻ là người có công với Nhà nước (bố được tặng huy chương chiến sĩ giải phóng và bị nhiễm chất độc hóa học, mẹ được tặng huy chương vì sự nghiệp giáo dục); bị cáo L3 có bố đẻ là người có công với Nhà nước (được tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang và Huy chương vì An ninh tổ quốc), bản thân bị cáo L3 từng phục vụ trong lực lượng vũ trang, nên ba bị cáo này đều được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt: khi lượng hình, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, nhưng dù có xem xét giảm nhẹ hình phạt đến đâu thì việc cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết.

[7] Về hình phạt bổ sung: các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong phong bì niêm phong 1911/KL-KTHS là vật Nhà nước cấm nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với: 02 điện thoại di động các loại thu giữ của V và T1, các bị cáo dùng vào việc liên lạc mua bán ma tuý, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước; riêng 03 sim kèm theo điện thoại không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo L3, xác định bị cáo L3 không dùng liên lạc việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

- Đối với số tiền 15.580.000 đồng thu giữ của Ngô Văn V, quá trình điều tra xác định có 14.000.000 đồng là tiền của chị Nguyễn Thị Kim L1 (vợ bị cáo V) đưa cho bị cáo Văn giữ hộ trước đó và số tiền 1.580.000 đông là của bị cáo V, số tiền trên không liên quan đến việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo V và chị L1.

- Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning biển kiểm soát 15A-xxxx, bị cáo dùng làm phương tiện vận chuyển ma túy đi bán, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản chung của vợ chồng V, V sử dụng xe để vận chuyển ma túy chị L1 (vợ V) không biết, Do đó cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị chiếc xe ô tô trên (kèm theo 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ngô Văn V và 01 giấy chứng nhận kiểm định xe mang tên Ngô Văn V). Trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim L1 ½ giá trị chiếc xe ô tô trên.

[9] Nội dung khác:

- Bị cáo Ngô Văn V: bán ma túy cho Phạm Quôc T3, thuê Nguyễn Đình T1 bán ma túy cho T3 và thuê Đỗ Xuân L3 chạy xe cho V, quá trình điều tra xác định T3 chưa thanh toán tiền mua ma túy cho V, V chưa thanh toán tiền công cho T1 và L3, nên không cần phải truy thu số tiền chưa thành toán sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với đối tượng Phạm Quốc T3 là người mua ma túy của V để sử dụng, tài liệu điều tra không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự Triệu về hành vi liên quan đến ma túy, do vậy kiến nghị Công an thị xã Q, tỉnh Q xử phạt hành chính đối với Phạm Quốc T3 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Đối với đối tượng bán ma túy cho Ngô Văn V theo lời khai của V, do không xác định được lai lịch, địa chỉ, nên không có điều kiện làm rõ; đối với xe ô tô biển kiểm soát 15A-xxxx Tiệp sử dụng để đi bán ma túy cho Phạm Quốc T3 là của Công ty T5, không liên quan đến tội phạm, nên không đề cập.

[10] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo về tội danh, điều khoản truy tố, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đề nghị áp dụng là có căn cứ, phù hợp với nội dung của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên cơ bản được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: các bị cáo: Ngô Văn V, Đỗ Xuân L3 và Nguyễn Đình T1 phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma tuý".

- Căn cứ: điểm h khoản 3 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn V 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 22/11/2022

- Căn cứ: điểm b khoản 3 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Xuân L3 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 24/11/2022.

- Căn cứ: khoản 1 Điều 251; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T1 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 06/12/2022.

- Về vật chứng: áp dụng: điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 1911/KL-KTHS và 03 sim điện thoại;

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 02 điện thoại di động các loại thu giữ của bị cáo V và T1. Trả lại 01 điện thoại di động cho bị cáo L3 (kèm 01 sim).

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ giá trị chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning biển kiểm soát 15A-xxxx kèm theo 01 chìa khóa xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Ngô Văn V và 01 giấy chứng nhận kiểm định xe mang tên Ngô Văn V. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim L1 ½ giá trị chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning biển kiểm soát 15A-xxxx trên.

+ Trả lại cho bị cáo Ngô Văn V số tiền 1.580.000đ (một triệu năm trăm tám mươi nghìn đồng), nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim L1 số tiền 14.000.000đ (mười bốn triệu đồng).

(Tình trạng như Biên bản giao vật chứng số 81 ngày 24/5/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh và Cục thi hành án dân sự tỉnh Q.

Tình trạng số tiền trên được gửi tại Ngân hàng TMCP Đ- Chi nhánh H theo Giấy nộp tiền mặt số 0179 ngày 08/02/2023 giữa Công an tỉnh Q và Ngân hàng TMCP Đ- Chi nhánh H).

- Về án phí: áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Ngô Văn V, Đỗ Xuân L3 và Nguyễn Đình T1, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (chị Nguyễn Thị Kim L1) có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về