TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 67/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 70/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Đình T, sinh năm 1980 tại Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT: Lô C29 MB 1858 phường Quảng T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình C và bà Nguyễn Thị B; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 07/5/2009, Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”;.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/11/2021 đến ngày 10/11/2021 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Lê Phi H, sinh năm 1986 tại Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT: phố Đông Q, phường Quảng Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T1g (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; có vợ là Nguyễn Thị C và 02 con; tiền án: Ngày 28/3/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chưa thi hành phần bồi thường dân sự); tiền sự: Không; nhân thân:
- Ngày 15/4/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
- Ngày 11/9/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/9/2019);
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/11/2021 đến ngày 10/11/2021 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để có tiền sử dụng ma túy, Nguyễn Đình T nảy sinh ý định mua ma túy về bán kiếm lời. Khoảng 5 giờ sáng ngày 04/11/2021, T đến khu vực cầu Bố, phường Đông V, thành phố Thanh Hóa tìm mua ma túy, tại đây T gặp và mua được 11 gói ma túy loại Heroine với giá 800.000 đồng của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không rõ tên tuổi, địa chỉ. Mua được ma túy T cầm về nhà ở Lô C29 MB 1858 phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa cất 05 gói ma túy trên giá để dép của gia đình, còn lại 06 gói ma túy T cất trong người để có người hỏi mua thì bán với giá 100.000 đồng một gói. Khoảng 6 giờ 50 phút cùng ngày, Lê Phi H đi đến quán cơm Nam H ở Lô C25 MB 1858 phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa gặp và hỏi mua ma túy của T, T đã bán cho H 04 gói ma túy loại Heroine với giá 400.000 đồng. Mua được ma túy H đi về, còn T ở lại quán cơm Nam H để trực tiếp bán ma túy. Đến 07 giờ 15 phút cùng ngày, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an thành phố Thanh Hóa kiểm tra, lúc này Nguyễn Đình T thả từ tay phải xuống đất ngay chân T đứng 02 gói Heroine, do bị phát hiện nên T đã tự giác nhặt 02 gói ma túy lên giao nộp cho tổ công tác. Ngoài ra T còn tự giác lấy 05 gói Heroine đang cất giấu trên giá để giày dép ở nhà T giao nộp, tổ công tác đã lập biên bản đối với T về hành vi mua bán trái phép chất ma tuý, thu giữ, niêm phong gói ma túy để phục vụ công tác điều tra.
Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Đình T tại Lô C29 MB 1858 phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa nhưng không phát hiện, thu giữ gì.
Tại bản kết luận giám định số 3384/PC09 ngày 09/11/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:
- Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,070g, loại: Heroine;
- Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,312g, loại: Heroine.
Đối với Lê Phi H sau khi mua được ma túy của Nguyễn Đình T, H đi về đến trước cổng trung tâm phòng chống HIV – AIDS thuộc trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Thanh Hóa ở phố Trường S, phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa thì bị tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an thành phố Thanh Hóa yêu cầu kiểm tra, H đã tự giác giao nộp 04 gói ma túy loại Heroine vừa mua được của T. Tổ công tác đã lập biên bản, thu giữ, niêm phong gói ma túy để phục vụ công tác điều tra.
Quá trình điều tra, H khai nhận trước đó khoảng 6 giờ 30 phút ngày 04/11/2021, tại Trung tâm phòng chống HIV – AIDS thuộc Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Thanh Hóa, có Nguyễn Quốc T2, sinh năm 1991, trú tại phố Gia L, phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa góp 100.000 đồng, Nguyễn Thế N, sinh năm 1976, trú tại 18/281 Quang T, phường Đông V, thành phố Thanh Hóa góp 200.000 đồng nhờ T mua ma túy. Quá trình điều tra N và T2 không thừa nhận việc góp tiền với H để đi mua ma túy, ngoài lời khai của H không có tài liệu, chứng cứ nào khác thể hiện việc N và T2 góp tiền cùng T để mua ma túy nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý đối với Nguyễn Thế N và Nguyễn Quốc T2.
Bản kết luận giám định số 3383/PC09 ngày 09/11/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,242g, loại: Heroine.
Đối với người đàn ông Nguyễn Đình T khai khoảng 30 tuổi bán ma túy cho T, do T không biết tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xác minh, xử lý.
Với nội dung nêu trên, bản cáo trạng số 24/CTr-VKS ngày 16/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hoá truy tố bị cáo Nguyễn Đình T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, truy tố bị cáo Lê Phi H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đình T; điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lê Phi H, tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Lê Phi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo T từ 27 tháng tù đến 30 tháng tù, bị cáo H từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.
Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, truy thu số tiền 400.000 đồng của bị cáo Tuấn do phạm tội mà có, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu của các bị cáo còn lại sau giám định.
Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình T, Lê Phi H khai nhận: Khoảng 07 giờ ngày 04/11/2021, tại trước cổng Trung tâm phòng chống HIV – AIDS thuộc Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Thanh Hóa ở phố Trường S, phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, công an thành phố Thanh Hóa đã phát hiện, bắt quả tang Lê Phi H có hành vi tàng trữ trái phép 04 gói Heroine có tổng khối lượng 0,242g, mua của Nguyễn Đình T. Vào hồi 7 giờ 15 phút cùng ngày tại quán cơm Nam H ở Lô C25 MB 1858 phường Quảng T, thành phố Thanh Hóa tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, công an thành phố Thanh Hóa đã phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Đình T cất giấu 02 (hai) gói Heroine có tổng khối lượng 0,070g và T tự giác giao nộp 05 gói Heroine có tổng khối lượng 0,312g mục đích để bán kiểm lời nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang cùng tang vật.
Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với các biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 04/11/2021 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đình T có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, hành vi nêu trên của bị cáo Lê Phi H có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của các bị cáo vì vậy cần phải được xử lý nghiêm trước pháp luật.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, thấy rằng:
Bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội thuộc trường hợp không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng nhân thân bị cáo: ngày 07/5/2009, bị Công an thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải, bố bị cáo là thương binh hạng A, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét, giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành người công dân có ích cho xã hội.
Đối với bị cáo Lê Phi H, bản án số 16/2017/HSST ngày 28/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, bị cáo bị xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại 9.100.000 đồng. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự, nếu bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính và đã chấp hành xong các quyết định khác của bản án thì mới đương nhiên được xóa án tích. Tuy nhiên bị cáo Hùng chưa chấp hành phần bồi thường dân sự của bản án nêu trên nên chưa được xóa án tích. Vì vậy bị cáo H đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lần này lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra nhân thân bị cáo đã hai lần bị xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.
[5] Đối với vật chứng: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong hai phong bì thư, hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hoá là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành vì vậy cần áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma này.
Đối với số tiền 400.000 đồng bị cáo Nguyễn Đình T có được do bán ma túy cho bị cáo Lê Phi H, là tiền do phạm tội mà có nhưng bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết vì vậy căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự truy thu số tiền này của bị cáo H để nộp ngân sách nhà nước.
[6]. Về hình phạt bổ sung; Bị cáo Nguyễn Đình T, Lê Phi H là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đình T.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Phi H.
Căn cứ Điều 38 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Nguyễn Đình T, Lê Phi H.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Lê Phi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Nguyễn Đình T 27 (hai bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 04/11/2021.
Xử phạt: Lê Phi H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 04/11/2021.
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong hai phong bì được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa. Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 39/2022/THA ngày 24/12/2021 giữa Công an thành phố Thanh Hóa với Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.
Truy thu của bị cáo Nguyễn Đình T 400.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình T, Lê Phi H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 67/2022/HS-ST
Số hiệu: | 67/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về