Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 59/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 59/2021/HS-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 12 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện S, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 58/2021/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lò Đức Ph, sinh năm 1994, tại huyện Sông M, tỉnh S; Trú tại: Bản Huổi B, xã Chiềng Kh, huyện Sông M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn D và bà Lường Thị Dn; bị cáo có vợ là Lường Thị Th và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/6/2021 cho đến nay; có mặt.

2. Quàng Văn B, sinh năm 1992, tại huyện S, tỉnh S;

Trú tại: Bản Ch, xã Chiềng Kh, huyện Sông M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn P và bà Lò Thị Ỏ; bị cáo có vợ là Lò Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2021 cho đến nay; có mặt.

3. Lường Văn H, sinh năm 1996, tại huyện Sông M, tỉnh S;

Trú tại: Bản Ch, xã Chiềng Kh, huyện Sông M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn B và bà Quàng Thị L; bị cáo có vợ là Lò Thị V và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/6/2021 cho đến nay; có mặt.

4. Lò Văn Th, sinh năm 1997, tại huyện Sông M, tỉnh S;

Trú tại: Bản Co Ph, xã Chiềng Kh, huyện Sông M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn K và bà Lò Thị L; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/10/2021 cho đến nay; có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lò Văn D, sinh năm 1957, trú tại: Bản Huổi B, xã Chiềng Kh, huyện Sông M, tỉnh S, có mặt.

2. Chị Lò Thị H, sinh năm 1992, Bản Ch, xã Chiềng Kh, huyện Sông M, tỉnh S, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 03 giờ 05 phút ngày 05/6/2021 tổ công tác Công an xã Mường Hung, S làm nhiệm vụ tại bản Chiên, Chiềng Khoong, S phát hiện một người đàn ông điều khiển xe mô tô hướng từ trong bản Chiên đi ra bản Mòn, Chiềng Khoong, S có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy nên tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Đối tượng khai nhận tên là Lường Văn H, sinh năm 1996 trú tại bản Ch, xã Chiềng Kh, Sông M, tổ công tác đã yêu cầu H giao nộp các tài liệu, đồ vật liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật, H đã tự nguyện đem giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu hồng từ lòng bàn tay phải, bên trong chứa 07 viên nén màu hồng (H khai nhận là Hồng phiến do Lò Đức Ph ở bản Huổi B, Chiềng Kh nhờ đem bán giúp). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lường Văn H, thu giữ và niêm phong vật chứng, ngoài ra tạm giữ của H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave ,biển kiểm soát 30F1-xxxx, số khung 35047Y061384, số máy JC35E0461356.

Ngày 06/6/2021 cơ quan CSĐT Công an huyện S triệu tập Quàng Văn B, Lò Đức Ph và Lò Văn Th tiến hành làm việc liên quan đến hành vi phạm tội của Lường Văn H. Tại cơ quan CSĐT Công an huyện S B và Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, Lò Đức Phg đã bỏ trốn đến ngày 12/6/2021 Ph đến Công an huyện S để đầu thú về hành vi phạm tội của bản thân.

Ngày 06/6/2021 tại Công an huyện S, tỉnh S, Hội đồng bóc mở niêm phong đã tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng và trích mẫu giám định, kết quả: 07 viên nén màu hồng thu giữ của H có khối lượng là 0,73 gam, đã trích 02 viên có khối lượng là 0,21 gam làm mẫu gửi giám định, ký hiệu H, vật chứng còn lại là 05 viên ký hiệu H1.

Tại bản kết luận giám định số 1085 ngày 09/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H là ma túy;

Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,21 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,73 gam; Loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra các bị cáo Lò Đức Ph, Lường Văn H, Quàng Văn B và Lò Văn Th khai nhận: Ngày 16/5/2021 do không còn tiền đề tiêu xài cá nhân P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave; biển kiểm soát 26C1- xxxxx đến nhà Nguyễn Trung Th, sinh năm 1991, trú tại bản Quyết T, Nà Ngh, Sông M để lại xe mô tô làm tin và vay số tiền 5.000.000 VNĐ. Vay được tiền Ph sử dụng vào việc chi tiêu cá nhân, đến ngày 03/6/2021 còn lại số tiền 450.000VNĐ Ph đem theo và đi bộ một mình lên bản Huổi Mòn, Chiềng Khoong, S để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời. Đến bản Huổi Mòn Ph vào nhà của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, tuổi và hỏi mua được 13 viên Hồng phiến với giá 450.000VNĐ. Mua được ma túy Ph cất giấu vào lọ nhựa được quấn bằng băng dính màu đen và cho vào ví của Ph rồi đi bộ về nhà.

Khoảng 18 giờ ngày 04/6/2021, Lò Đức Ph đi bộ đến nhà Quàng Văn B, sinh năm 1992 trú tại bản Ch, Chiềng Kh, Sông M chơi, một lúc sau Lò Văn Th, sinh năm 1996 trú tại bản Co Ph, Chiềng Kh cũng đến chơi. Ngồi nói chuyện được một lúc thì Ph lấy gói Hồng phiến mang theo rồi bỏ ra 06 viên Hồng phiến chia đều cho Ph, B và Th mỗi người 02 viên để cùng sử dụng bằng hình thức hít qua đường hô hấp. B đi nhặt lấy một vỏ chai nhựa chế thành tẩu rồi đưa cho Phg sử dụng trước, Ph thấy chưa đạt nên đem đi sửa lại rồi sử dụng hết 02 viên Hồng phiến thì đưa cho Th, Th sử dụng xong 02 viên Hồng phiến và đưa tẩu cho B, khi B sử dụng hết viên Hồng phiến thứ nhất thì có Lường Văn H, sinh năm 1996 ở cùng bản với B đến và xin sử dụng Hồng phiến cùng với B, thấy vậy B đưa 01 viên Hồng phiến còn lại cho H sử dụng bằng hình thức hít qua đường hô hấp vào cơ thể ngay tại nhà của B. Sử dụng ma túy xong H ngồi nói chuyện và xem mọi người chơi game bằng điện thoại, đến khoảng 02 giờ ngày 05/6/2021 thì B đi xuống bếp để lấy nước uống, lúc này H và Th ngồi trên chiếu trải dưới nền sàn nhà, còn Ph ngồi trên giường (có trải đệm), Ph nói với H và Th có khách đặt mua Hồng phiến với số tiền 300.000VNĐ nói xong Ph quay mặt vào tường, nhặt một mảnh nilon màu hồng gói 07 viên hồng phiến lại rồi quay ra đặt lên trên chiếu trước mặt của Th và H. Ngay sau đó B đi vào nhìn thấy gói nilon màu hồng nghĩ là rác nhặt lên định cho vào xô rác thì Ph nói với B đó là ma túy khách đặt mua nên Bun đưa lại gói ma túy cho Ph, Ph cầm lấy rồi nhét gói ma túy vào dưới đệm trên giường Ph đang ngồi. Khi đó cả bốn người ngồi xung quanh nhau theo hình vòng tròn, Ph ngồi đối diện H còn bên trái là Th, bên phải là B khoảng cách mỗi người là khoảng 01m, ở giữa là xô để xì thuốc lào với ổ điện đang cắm sạc điện thoại của Ph, H, B (vừa sạc vừa chơi). Một lúc sau Ph đứng dậy để đi tắm và có nhờ Th cầm gói ma túy để dưới đệm mang đi bán cho khách nhưng Th nói đang mệt và không đi, khi Ph đến cửa thì H nói để H đi giao ma túy, nghe vậy Ph nói Th lấy gói ma túy để ở dưới đệm đưa cho H để đem bán thì Th đồng ý dùng tay phải móc lấy gói ma túy để dưới đệm đưa cho H. Ph nói với H đem gói ma túy xuống dốc bản Chiên bán cho một người tên Di lấy 300.000VNĐ rồi đem tiền về cho Ph, H đồng ý và hỏi mượn xe của Ph để đi giao ma túy, Ph nói không có xe và mượn xe của B đi, H quay sang hỏi xe thì B nói chìa khóa cắm ở xe dựng dưới sàn nhà. H đi xuống rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Future Neo biển kiểm soát 30F1-xxxx cầm theo gói ma túy trong lòng bàn tay phải, khi đến cuối bản Chiên, Chiềng Khoong, S thì gặp tổ công tác Công an xã Mường Hung, S làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu.

Ngoài ra Cơ quan điều tra còn tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave, biển kiểm soát 26C1-xxxxx số khung 1210DY455136; số máy HC12E5455276 do anh Nguyễn Trung Th giáo nộp. Chiếc xe do Lò Đức Ph đem cầm cố để vay số tiền 5.000.000đ với anh Nguyễn Trung Th.

Cáo trạng số: 189/CT-VKS ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện S để xét xử: Bị cáo Lò Đức Ph về các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 và khoản 2 Điều 255 BLHS; bị cáo Quàng Văn B về các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tội: Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 và khoản 2 Điều 256 BLHS; các bị cáo Lường Văn H, Lò Văn Th về tội:

Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lò Đức Ph, Quàng Văn B, Lường Văn H và Lò Văn Th đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện S vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Lò Đức Ph phạm các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;

Bị cáo Quàng Văn B phạm các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tội:

Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy;

Các bị cáo Lường Văn H, Lò Văn Th phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy;

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lò Đức Ph: Từ 28 đến 32 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy và 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt hình phạt chung cho cả hai tội.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Quàng Văn B: Từ 26 đến 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy và 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội: Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt hình phạt chung cho cả hai tội.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lường Văn H: Từ 26 đến 30 tháng tù Xử phạt: Lò Văn Th: Từ 26 đến 30 tháng tù Đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Vật chứng của vụ án: Đề nghị HĐXX:

- Tịch thu để tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu hồng; 0,52 gam ma túy, loại Methamphetamine; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở;

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lò Văn D 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave, biển kiểm soát 26C1-xxxxx số khung 1210DY455136; số máy HC12E5455276;

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Future Neo, biển kiểm soát 30F1-xxxx số khung 35047Y061384, số máy JC35E0461356.

Về án phí: Đề nghị miễn án phí cho các bị cáo, do bị cáo là dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Các bị cáo Lò Đức Ph, Quàng Văn B, Lường Văn H, Lò Văn Th không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: ông Lò Văn D và chị Lò Thị H đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết xin được trả lại 02 chiếc xe mô tô.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, ý kiến của những người liên quan, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định tội danh của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ trong vụ án, Kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 04/6/2021 Lò Đức Ph tìm mua được 13 viên Hồng phiến (Methamphetamine) và đem đến nhà Quàng Văn Btại bản Ch, Chiềng Kh, Sông M. Tại nhà Quàng Văn B, Ph đã bỏ ra 06 viên Hồng phiến để cung cấp cho B, Th và H cùng sử dụng. Hành vi của bị cáo Lò Đức Ph đã phạm vào tội: "Tổ chức sở dụng trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b khản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Ngày 04/6/2021 tại nhà ở của mình, Quàng Văn B đã cho Lò Đức Ph, Lò Văn Th và Lường Văn H sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo Quàng Văn B đã phạm vào tội: "Chứa chấp việc sử dung trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b khản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Khoảng 02 giờ ngày 05/6/2021 Lò Đức Phg tiếp tục bỏ ra 07 viên Hồng phiến (Methamphetamine) gói lại rồi để cho Lò Văn Th đưa lại cho Lường Văn H đem đi bán. Hùng đã mượn xe mô tô của Quàng Văn B để đem ma túy đi bán, khi H đi đến dốc bản Chiên, Chiềng Khoong thì bị tổ công tác Công an xã Mường Hung, S làm nhiệm vụ, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 0,73gam ma túy, loại Methamphetamine; 01 xe mô tô. Hành vi của các bị cáo Lò Đức Ph, Quàng Văn B, Lò Văn Th, Lường Văn H đã phạm vào tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố bị cáo Lò Đức Ph về các tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" và tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS; truy tố bị cáo Quàng Văn B về các tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" và tội "Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm d khoản 2 Điều 256 BLHS; truy tố các bị cáo Lường Văn H, Lò Văn Th về tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất vụ án là nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.

[4] Về vai trò của các bị cáo trong hành vi mua bán trái phép chất ma túy: Bị cáo Lò Đức Ph là người khởi xướng, có ma túy, trực tiếp trao đổi thỏa thuận với người mua ma túy, do đó giữ vai trò chính trong vụ án; Các bị cáo Quàng Văn B, Lò Văn Th, Lường Văn H giữ vai trò đồng phạm giúp sức tích cực. Cần áp dụng Điều 58 BLHS khi quyết định hình phạt và căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, khối lượng ma túy các bị cáo mang đi bán mục đích để bán kiếm lời, vai trò của các bị cáo để quyết định một mức án phù hợp với từng bị cáo nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo chưa có tiền án, thiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy các bị cáo không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về các tình tiết, đối tượng có liên quan:

Đối với người đàn ông dân tộc Mông, không rõ tên, địa chỉ là người đã bán ma tuý cho bị cáo Lò Đức Ph tại bản Huổi Mòn, Chiềng Khong, S vào ngày 03/6/2021. Do không xác định được họ tên đầy đủ và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

Đối với Nguyễn Trung Th, sinh năm 1991, trú tại: Bản Quyết T, xã Nà Ngh, huyện S tỉnh S là người đã cho Lò Đức Ph vay số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) và Ph để lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave, biển kiểm soát 26C1-xxxxx số khung 1210DY455136; số máy HC12E5455276 để làm tin. Ngày 25/6/2021 Nguyễn Trung Th đã giao nộp chiếc xe mo tô cho cơ quan điều tra. Ngày 10/7/2021 ông Lò Văn D (bố của Lò Đức Ph) đã đem số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến trả cho Nguyễn Trung Th, anh Th đã nhận đủ số tiền và không yêu cầu gì thêm, nên HĐXX không xem xét.

[7] Về vật chứng của vụ án: Vật chứng đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện S gồm: 01 mảnh nilon màu hồng; 0,52 gam ma túy, loại Methamphetamine; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave, biển kiểm soát 26C1-xxxxx số khung 1210DY455136; số máy HC12E5455276 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Future Neo, biển kiểm soát 30F1-xxxx số khung 35047Y061384, số máy JC35E0461356.

Đối với 01 mảnh nilon màu hồng; 0,52 gam ma túy, loại Methamphetamine; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở là vật Nhà nước cấm lưu hành và những vật không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave, biển kiểm soát 26C1- xxxxx số khung 1210DY455136; số máy HC12E5455276. Ngày 16/5/2021 bị cáo Lò Đức Ph đem đặt làm tin để vay số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) của anh Nguyễn Thành Tr. Xe đăng ký mang tên Lò Văn D(bố bị cáo Ph), xe không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Quàng Văn D trong đơn xin lại tài sản trình bày: Ngày 16/5/2021 Lò Đức Ph đem xe đi cầm cố lấy tiền mua ma túy thì ông D không biết, ông D đã đem số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) trả cho anh Nguyễn Thành Tr. Ông D đề nghị HĐXX xem xét xin được trả lại chiếc xe mô tô, nên cần được chấp nhận.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Future Neo, biển kiểm soát 30F1-xxxx số khung 35047Y061384, số máy JC35E0461356, xe đăng ký mang tên Nguyễn Văn T, xe không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Ngày 05/6/2021 bị cáo Quàng Văn B cho bị cáo Lường Văn H mượn đem ma túy đi bán. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị H trong trình bày: Chiếc xe mô tô nêu trên là tài sản của chung của vợ chồng, ngày 05/6/2021 chồng chị là bị cáo Quàng Văn B cho bị cáo Lường Văn H mượn đem ma túy đi bán thì chị không biết. Chị H đề nghị HĐXX xem xét xin được trả lại chiếc xe mô tô, nên cần được chấp nhận.

[8] Về án phí: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lò Đức P;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Quàng Văn Bun;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Lường Văn Hùng, Lò Văn Thoải.

1. Tuyên bố:

- Bị cáo: Lò Đức Ph phạm các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tôi: Tổ chức việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Xử phạt: Lò Đức Ph 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy và 07 (Bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: Tổ chức việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là: 10 (Mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/06/2021.

- Bị cáo: Quàng Văn B phạm các tội: Mua bán trái phép chất ma túy và tôi: Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Xử phạt: Quàng Văn B 02 (Hai sáu) năm 02 (hai) tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy và 07 (Bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là: 09 (Chín) năm 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/06/2021.

- Các bị cáo Lường Văn H, Lò Văn Th phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

+ Xử phạt Lường Văn H 26 (Hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/06/2021.

+ Xử phạt Lò Văn Th 26 (Hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/10/2021.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu huỷ: 01 mảnh nilon màu hồng; 0,52 gam ma túy, loại Methamphetamine; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở;

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lò Văn D 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave, màu đen bạc, biển kiểm soát 26C1-xxxxx, số khung 1210DY455136; số máy HC12E5455276, xe đã qua sử dụng, cũ, hỏng hóc nhiều chỗ;

- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị H 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Future Neo, màu đen xám, biển kiểm soát 30F1-xxxx, số khung 35047Y061384, số máy JC35E0461356, xe đã qua sử dụng, cũ, hỏng hóc nhiều chỗ.

Những vật chứng trên theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 09 giờ 45 phút ngày 29 tháng 11 năm 2021 giữa Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.

3. Về án phí: Áp dung khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Các bị cáo Lò Đức Phg, Quàng Văn B, Lường Văn H, Lò Văn Th được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/12/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 59/2021/HS-ST

Số hiệu:59/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về