Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 57/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 57/2021/HS-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 31 tháng 8 năm 2021 tại Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2021/TLST- HS ngày 06 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2021 đối với:

* Bị cáo: Phạm Văn T - Sinh năm 1994 tại tỉnh Nam Định.

Nơi cư trú: Xóm 16, xã Nghĩa Thái, huyện N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; con ông Phạm Văn T, sinh năm 1969 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1972, hiện cả hai đều lao động tự do tại xóm 16, xã Nghĩa Thái, huyện N, tỉnh Nam Định; gia đình có 02 anh em, T là con thứ hai; vợ, con: Không. Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 09/01/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 04 tháng tù, về tội Đánh bạc, phạt tiền 3 triệu đồng.

Bị cáo Phạm Văn T bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 16/6/2021 đến ngày 19/6/2021 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Hoài T – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm TGPL tỉnh Nam Định; vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Đỗ Văn D, sinh năm 1980; vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 16 tháng 6 năm 2021, Đỗ Văn Dự đi nhờ xe và mượn điện thoại người đi đường gọi điện thoại cho Phạm Văn T để hỏi mua ma túy. T hẹn Dự đến đường dong xóm 5, xã Nghĩa Trung để giao dịch. T đi bộ từ nhà ở đến chỗ hẹn. Khoảng 12 giờ cùng ngày, Dự gặp và đưa cho T 200.000 đồng, T cầm tiền và đưa lại cho Dự một gói ma túy thì bị Công an huyện N phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong lòng bàn tay trái của Dự 01 gói nhỏ, vỏ gói là giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (niêm phong kí hiệu M), Dự khai nhận đó là gói heroine vừa mua của T; thu giữ của Phạm Văn T số tiền 200.000, T khai là tiền vừa bán gói heroine cho Dự mà có. Tạm giữ của Phạm Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có gắn thẻ sim 0813.350.901. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Văn T: không thu giữ đồ vật, tài liệu.

Tại bản kết luận giám định số 822/GĐKTHS ngày 17 tháng 6 năm 2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01(một) gói nhỏ vỏ gói là giấy màu trắng trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,021 gam.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, Phạm Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và khai nhận về nguồn gốc số ma túy T bán cho Dự ngày 16/6/2021: Sáng ngày 16/6/2021, T đi xe buýt đến khu vực Ga Nam Định, thành phố Nam Định mua của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ 02 gói heroine với giá 300.000 đồng với mục đích về sử dụng và bán kiếm lời. T đã sử dụng hết 01 gói, còn 01 gói bán cho Dự thì bị bắt giữ.

Bản cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 05/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Người bào chữa cho bị cáo vắng mặt nhưng có gửi quan điểm bào chữa: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong muốn được sửa chữa lỗi lầm, mong muốn được hưởng khoan hồng của nhà nước và bị cáo có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ cận nghèo của địa phương nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát.

Tại phiên toà hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo như tội danh và điều luật đã nêu. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Phạm Văn T từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 822/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng; tịch thu hoá giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có gắn thẻ sim 0813.350.901; đề nghị áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc để tuyên án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên toà hôm nay. Như vậy đã đủ cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại đường dong xóm 5, xã Nghĩa Trung, huyện N, Phạm Văn T đã có hành vi bán trái phép 0,021 gam heroine cho Đỗ Văn Dự với giá 200.000 đồng thì bị bắt quả tang. Đối chiếu với Bộ luật hình sự thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng cố ý thực hiện. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 09/01/2013, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 04 tháng tù, về tội Đánh bạc, phạt tiền 3 triệu đồng, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Trong giai đoạn điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tập chung cải tạo đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

+ Đối với 01 phong bì niêm phong số 822/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định, cần tịch thu tiêu huỷ;

+ Đối với số tiền 200.000 đồng, cần tịch thu sung quỹ nhà nước;

+ Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có gắn thẻ sim 0813.350.901 cần tịch thu hoá giá sung quỹ nhà nước.

[6] Đối với Đỗ Văn Dự là người nghiện ma túy có hành vi mua ma tuý của Phạm Văn T về để sử dụng, nhưng số lượng nhỏ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đỗ Văn Dự là phù hợp.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Phạm Văn T tại khu vực Ga Nam Định, thành phố Nam Định sáng ngày 16 tháng 6 năm 2021, hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[7] Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện N là phù hợp;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;

2. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 33 (ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2021.

3. Xử lý vật chưng: + Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 822/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng.

+ Tịch thu hoá giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có gắn thẻ sim 0813.350.901.

Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N.

4. Án phí: Buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 57/2021/HS-ST

Số hiệu:57/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về