Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 56/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 56/2023/HS-ST NGÀY 08/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 6 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2023/TLST - HS ngày 05 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023, đối với bị cáo:

Vũ Văn B, sinh ngày 08 tháng 4 năm 1970; Nơi đăng ký HKTT: Thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi cư trú: Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn M, sinh năm 1945; con bà: Đỗ Thị S (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1973, con: Có 02 con (lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1999); Tiền án, tiền sự: Không;

- Nhân thân:

+ Năm 1995 Vũ Văn B bị Công an xã T (cũ) xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;

+ Năm 1998 Vũ Văn B bị Công an huyện Vĩnh Tường xử phạt vị phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy;

+ Tại bản án số 27/HSST ngày 04/9/2002, Vũ Văn B bị TAND huyện Vĩnh Tường xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt có giá trị 1.000.000đ); B đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/5/2003 và nộp tiền án phí theo quy định.

+ Tại Quyết định số 04/QĐ ngày 15/6/2004, Vũ Văn B bị UBND thị trấn T áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời gian 03 tháng đến ngày 15/9/2004 chấp hành xong;

+ Năm 2004, Vũ Văn B bị Công an thị trấn T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích với hình thức phạt tiền 200.000đ. Đến nay B chưa chấp hành việc nộp phạt, đã hết thời hiệu thi hành theo quy định;

+ Tại bản án số 07/STHS ngày 02/12/2004, B bị TAND huyện Vĩnh Tường xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tài sản chiếm đoạt có giá trị 972.000đ); B đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/02/2006) và nộp tiền án phí theo quy định.

+ Tại bản án số 23/2018/HS-ST ngày 10/5/2018, B bị TAND huyện Vĩnh Tường xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 29/6/2020 B chấp hành xong hình phạt tù và nộp án phí xong ngày 19/6/2018 (đã được xóa án tích ).

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 14/12/2022 đến ngày 20/12/2022 chuyển tạm giam. Ngày 18/01/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn là bảo lĩnh. Hiện đang tại ngoại (Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Vũ Văn M (bố của bị cáo B), sinh năm 1945; Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn T, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Vắng mặt).

Người làm chứng: Anh Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1990; Địa chỉ: Tổ dân phố N, thị trấn V, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 14/12/2022, B đang ở nhà thì có một nam tH niên không quen biết (tại cơ quan điều tra B thấy người này khai là Nguyễn Văn Hh, sinh năm 1984, trú tại: Tổ dân phố N, thị trấn V) sử dụng số điện thoại 0329.314.8xx gọi đến số điện thoại 0337.949.3xx của B hỏi: “Anh để em cái”, B hiểu ý H hỏi mua của B 01 gói ma túy heroine. Do trước đó B biết chỗ mua được ma túy để bán lại cho H kiếm lời nên B nhận lời đồng ý và bảo H giá 270.000 đồng, ra khu vực ngõ đối diện Trạm y tế thị trấn T để giao dịch mua bán ma túy. Sau đó, B điều khiển xe đạp đi từ nhà ra khu vực Trạm y tế thị trấn T, khi đến nơi, B thấy một người đàn ông đeo khẩu trang, cao khoảng 1,65m, dáng người gầy, da ngăm đen đang đứng một mình, đoán là người gọi điện thoại hỏi mua ma túy nên B đi đến gần người này. Thấy B, người đó (tức H) lấy từ trong người ra số tiền 270.000 đồng và đưa cho B, B hiểu đây là số tiền H mua một gói ma túy heroine nên đã cầm và dặn H: "Đợi tí anh quay lại đưa cho", rồi B một mình điều khiển xe đạp đi đến nhà cháu Nga có mẹ tên là Hòa ở gần trạm y tế thị trấn T và mua được của cháu Nga một gói ma túy heroine bọc bên ngoài bằng nilon màu trắng với giá 200.000đ với mục đích bán lại cho H kiếm lời 70.000đ. Sau khi mua được gói ma túy heroine, B điều khiển xe đi về chỗ H đang đứng đợi và đưa gói ma túy cho H. Khi H vừa cầm gói ma túy B đưa cất vào túi quần bên phải phía trước đang mặc thì đúng lúc này, lực lượng Công an đến kiểm tra, phát hiện bắt quả tang B có hành vi bán trái phép chất ma túy cho H.

Tang vật thu giữ, tạm giữ: Thu trong túi quần bên phải phía trước H đang mặc 01 gói nhỏ bọc bên ngoài bằng nilon màu trắng, mở ra kiểm tra bên trong có chứa chất bột, cục màu trắng, H khai nhận đó là gói ma túy heroine của H vừa mua được của B với giá 270.000đ; Tang vật được niêm phong vào 01 phong bì thư theo đúng quy định của pháp luật, ký hiệu A1. Thu trong túi quần bên trái phía trước H đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen (đã cũ) bên trong lắp sim thuê bao 0329.314.8xx.

- Thu trong túi quần bên phải phía trước B đang mặc số tiền 70.000đ gồm 01 tờ tiền polime mệnh giá 50.000đ, 02 tờ tiền polime mệnh giá 10.000đ, B khai nhận đó là tiền B thu lời được từ việc bán 01 gói ma túy heroine cho H mà có. Thu trong túi áo ngực bên trái B đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO (đã cũ) bên trong lắp sim thuê bao 0337.949.3xx. Tạm giữ của B 01 xe đạp màu xanh đã cũ.

Căn cứ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Vũ Văn B, cùng ngày 14/12/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Tường tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của B tại tổ dân phố B Cường, thị trấn T. Quá trình khám xét không phát hiện thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài sản gì.

Ngày 14/12/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Tường đã ra Quyết định số 684 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định đối với mẫu vật A1 có phải là chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy không, loại chất ma túy, tiền chất gì? Khối lượng mẫu gửi giám định là bao nhiêu? Ngày 18/12/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có bản kết luận giám định số 3686, kết luận: Chất bột cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0579g (không phảy không năm bảy chín gam, không kể bao bì) loại Heroin.

Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định của cơ quan trưng cầu, gồm: A1 = 0,0321g mẫu cùng bao gói được niêm phong chung trong bao gói giấy "MẪU TRẢ", trên giáp lai có chữ ký của người tham gia đóng gói, niêm phong và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc.

Ngày 20/12/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Tường đã ra Công văn số 24 yêu cầu Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông quân đội (Viettel) cung cấp thông tin về chủ thuê bao, cuộc gọi đi và đến, tin nhắn đi và đến, thời gian, cột sóng trong ngày 14/12/2022 đối với số thuê bao 0337.949.3xx thu giữ của B và số thuê bao 0329.314.8xx thu giữ của đối tượng khai tên Nguyễn Văn H. Ngày 10/3/2023, Tập đoàn Công nghiệp- Viễn thông quân đội (Viettel) đã có Báo cáo chi tiết lịch sử liên lạc thoại & SMS của thuê bao đối với 02 số thuê bao nêu trên. Theo đó xác định: Chủ thuê bao số 0337.949.3xx là Huỳnh Tấn L, sinh năm 1957, trú tại khu T, thị trấn T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long; Chủ thuê bao số 0329.314.8xx là chị Trần Thị L, sinh năm 1981, trú tại: Tổ dân phố N, thị trấn V, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc; kết quả tra cứu xác định số điện thoại 0329.314.8xx do đối tượng H sử dụng có gọi đến số thuê bao 0337.949.3xx của B vào lúc 11 giờ 54 phút 18 giây và 12 giờ 07 phút 23 giây với thời lượng gọi lần lượt là 62 giây và 18 giây.

Cơ quan cảnh sát điều tra đã tống đạt kết luận giám định trên cho Vũ Văn B, B hoàn toàn nhất trí với nội dung kết quả trưng cầu giám định , không có ý kiến thắc mắc gì.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số: 42/CT-VKSVT ngày 04 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Vũ Văn B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường trình bày lời luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Văn B từ 02 năm 09 tháng đến 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/12/2022 đến ngày 18/01/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng vì lý do bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản, không có công việc làm và thu nhập ổn định. Hiện sức khỏe yếu, thường xuyên phải nằm viện điều trị.

Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến kiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, bị cáo khai nhận: Hồi 12 giờ 15 phút ngày 14/12/2022, tại ngã tư khu vực trạm y tế thị trấn T thuộc tổ dân phố N, thị trấn T, huyện V, Tổ công tác Công an huyện Vĩnh Tường bắt quả tang Vũ Văn B có hành vi bán trái phép 0,0579g (không phảy không năm bảy chín gam) chất ma túy loại Heroine với giá 270.000 đồng cho người đàn ông tự khai tên Nguyễn Văn H, sinh năm 1984, trú tại: tổ dân phố Nhật Tân, thị trấn Vĩnh Tường, huyện Vĩnh Tường.

Tang vật thu giữ: 01 gói nilon màu trắng là 0,0579g Heroine, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO (đã cũ) bên trong lắp sim thuê bao 0337.949.3xx của B; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen (đã cũ) bên trong lắp sim thuê bao 0329.314.8xx của H, số tiền 70.000đ và 01 xe đạp màu xanh đã cũ.

[3]. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo, người làm chứng tại cơ quan điều tra, Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Vĩnh Phúc, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do vậy có đủ cơ sở để xác định hành vi của Vũ Văn B đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[4]. Hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách của Nhà nước về thống nhất quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự, an ninh ở địa phương nhất là trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước có những chủ trương, biện pháp đấu tranh không khoan nhượng đối với các loại tội phạm về ma tuý nhưng trên địa bàn huyện Vĩnh Tường tội phạm về ma tuý diễn biến ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng, đó cũng là mầm mống nảy sinh những tội phạm khác như: Trộm cắp, lừa đảo, cướp giật tài sản......Do vậy cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo có như vậy mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe những công dân khác đã và đang có ý định vi phạm pháp luật, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[5]. Xét nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, không có tiền án, tiền sự nhưng bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu: Năm 1995 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; năm 1998 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 04/9/2002 bị TAND huyện Vĩnh Tường xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 15/6/2004 bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; năm 2004 bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích”; ngày 02/12/2004 bị TAND huyện Vĩnh Tường xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 10/5/2018 bị TAND huyện Vĩnh Tường xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Mặc dù bị cáo đã chấp hành xong hình phạt của bản án và các quyết định nhưng điều đó cho thấy thái độ coi thường pháp luật của bị cáo nên cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc, có như vậy mới có tác dụng cải tạo bị cáo trở thành người công dân biết chấp hành pháp luật. Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo luôn khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, ngoài ra bị cáo hiện nay đang bị bệnh nặng (Xơ gan cổ chướng) Gan teo/xơ gan, Lách to, Dịch ổ bụng. Do vậy Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có công việc làm ổn định và không có tài sản riêng vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về các vấn đề khác:

Đối với người mua ma túy của B ngày 14/12/2022 tự khai tên là Nguyễn Văn H, quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra sau khi bắt quả tang, H đã khai nhận rõ hành vi vi phạm của mình, chấp hành việc xét nghiệm túy và kiểm tra điện thoại di động sau đó H đã tự đi khỏi trụ sở Công an huyện Vĩnh Tường. Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm, xác minh đối tượng nhưng Công an thị trấn V cung cấp không có cá nhân nào có họ tên, nhân thân như đối tượng H khai cư trú, sinh sống và làm việc tại địa bàn. Kết quả làm việc với chị Trần Thị Loan là chủ thuê bao số điện thoại đối tượng H sử dụng liên lạc với B giao dịch việc mua bán ma túy, xác định: Chị L không biết, không có quan hệ gì với Vũ Văn B và đối tượng khai tên Nguyễn Văn H, chị có đăng ký chủ thuê bao và sử dụng số điện thoại 0329.314.8xx đến tháng 11/2022 thì bị rơi mất khi đi làm ruộng, chị không biết sau đó ai quản lý, sử dụng và không đề nghị nhận lại chiếc sim thuê bao di động trên. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Vĩnh Tường chưa xác định được nhân thân đối tượng mua ma túy của B vào trưa ngày 14/12/2022, Cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành xác minh làm rõ khi có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với cháu gái tên N có mẹ tên là H nhà ở gần khu vực Trạm y tế thị trấn T là người bán ma túy cho cho B (theo lời khai của B), quá trình điều tra xác định có một người tên Nguyễn Thị Thúy Nga, sinh ngày 2005, trú tại Tổ dân phố N, thị trấn T. Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập, ghi lời khai của N. Tuy nhiên, N không thừa nhận việc có bán ma tuý cho B, kết quả xét nghiệm ngày 09/3/2023, N âm tính với ma túy; N cam đoan lời khai là khách quan, đúng sự thật và không đồng ý tham gia đối chất với B. B khai khi đến mua ma túy của Nga thì không có ai biết, chứng kiến. Do đó, không có căn cứ xác định N bán ma túy cho B ngày 14/12/2022 như lời khai của B nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[8]. Về xử lý vật chứng:

Đối với mẫu vật A1 và toàn bộ bao gói do cơ quan giám định hoàn trả sau giám định không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với số tiền 70.000 đồng thu giữ trên người B, quá trình điều tra xác định là tiền B phạm tội mà có nên cần tịch thu, sung ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen (đã cũ) bên trong lắp sim thuê bao 0329.314.8xx thu giữ của H, quá trình điều tra xác định đây là chiếc điện thoại di động của H, H đã sử dụng chiếc điện thoại để liên hệ mua ma túy của B vào ngày 14/12/2022 nên cần tịch thu, bán phát mại sung công quỹ Nhà nước. Đối với chiếc sim thuê bao xác định chủ sở hữu là chị Trần Thị Loan không đề nghị nhận lại nên không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO (đã cũ) bên trong lắp sim thuê bao 0337.949.3xx thu giữ của B, quá trình điều tra xác định đây là chiếc điện thoại của B còm sim thuê bao là sim rác, B mua đã được kích hoạt sẵn nên không biết ai là chủ thuê bao. Ngày 14/12/2022, B đã dùng điện thoại thoại và sim thuê bao trên để liên hệ bán ma túy cho H nên cần tịch, bán phát mại sung công quỹ Nhà nước đối với chiếc điện thoại và tịch thu tiêu hủy đối với sim thuê bao trên.

Đối với 01 chiếc xe đạp màu xanh (đã cũ) tạm giữ của B, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Vũ Văn M, sinh năm 1945, trú tại: tổ dân phố B, thị trấn T, huyện V (là bố đẻ của B), ngày 14/12/2022 B đã tự lấy đi đến địa điểm hẹn bán ma túy cho H, ông M hoàn toàn không biết và không liên quan gì. Do vậy, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe đạp trên cho ông Minh là có căn cứ.

[9]. Về án phí: Bị cáo Vũ Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn B 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi chấp hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/12/2022 đến ngày 18/01/2023.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước số tiền thu lời bất chính 70.000đồng do B bán trái phép chất ma túy cho H ngày 14/12/2022 mà có;

Tịch thu bán phát mại sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen (đã cũ) thu giữ của H và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO (đã cũ) thu giữ của B.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc sim thuê bao 0329.314.8xx thu giữ của H và 01 chiếc sim thuê bao 0337.949.3xx thu giữ của B do không có giá trị sử dụng.

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn trả lại sau giám định, gồm A1 = 0,0321g mẫu cùng bao gói được niêm phong chung trong bao gói giấy "MẪU TRẢ", trên giáp lai có chữ ký của người tham gia đóng gói, niêm phong và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/4/2023 giữa Công an huyện Vĩnh Tường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vũ Văn B phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 56/2023/HS-ST

Số hiệu:56/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về